Tôi Được Tấn Phong Lạt Ma
Chính trong thời kỳ này tôi được thụ huấn ráo riết về phương pháp xuất hồn
hay xuất vía để đi châu du trên cõi trung giới, trong khi đó linh hồn rời
khỏi thể xác và chỉ dính liền với nó với sự sống phàm trần bằng một sợi dây
bạc. Nhiều người không tin rằng sự xuất hồn như thế có thể thực hiện được,
nhưng thật ra thì tất cả mọi người đều xuất hồn để di chuyển trong cõi vô
hình bằng cách đó trong giấc ngủ. Có điều khác là ở Phương Tây, người ta
xuất hồn trong giấc ngủ mà không hay biết, còn các nhà đạo sĩ Tây Tạng có
thể xuất hồn đi châu du khắp mọi nơi tùy ý muốn, nhờ đó họ có thể nhớ tất cả
những gì họ đã thấy và làm, cùng những nơi nào họ đã đến viếng. Bí thuật này
đã mất đi ở phương Tây, bởi đó khi họ thức tỉnh, nhiều người cho rằng họ đã
trải qua một "giấc mộng."
Tất cả các xứ đều biết về việc đi châu du bằng thể Vía, cũng như ở Anh Quốc,
những nhà nữ phù thủy đã từng nổi tiếng là biết "bay". Ở khắp nơi trên thế
giới, người ta đã từng biết về những vấn đề này, dẫu rằng sự hiểu biết này
đã mai một với thời gian và mất đi trong ký ức loài người. Người ta đã tập
luyện cho tôi có thể xuất hồn đi ngao du bằng thể Vía cũng ở trong tầm tay
của tất cả mọi người.
Một bí thuật khác có thể học được một cách dễ dàng là khoa thần giao cách
cảm, nhưng với điều kiện là không nên biểu diễn nó ở những nơi hí trường
hoặc những nơi công cộng. Thật là một điều đáng mừng mà thấy rằng người ta
đã bắt đầu nhìn nhận khoa này. Chúng tôi cũng thực hành cả khoa thôi miên.
Tôi đã thực hành nhiều cuộc giải phẫu quan trọng cho những bệnh nhân được
đặt trong trường hợp cắt bỏ một chân chẳng hạn. Bệnh nhân không cảm thấy gì,
không đau đớn chi hết và khi thức tỉnh, tình trạng chung của họ còn khả quan
hơn là nếu họ bị chụp thuốc mê theo phương pháp cổ điển. Hình như bên Anh
Quốc hiện nay người ta đã bắt đầu áp dụng khoa thôi miên trong một vài
trường hợp giải phẫu.
Thuật tàng hình cũng là một môn bí thuật khác nữa trong chương trình học Đạo
của tôi. Cũng may mà bí thuật này chỉ được truyền dạy cho một thiểu số người
rất hiếm thuộc về thành phần ưu tú. Nguyên tắc của nó rất giản dị, nhưng sự
thực hành thì rất khó. Ta hãy thử nghĩ đến những gì làm cho ta chú ý: Một âm
thanh, một vật gì thình lình cử động, hay một màu sắc lòe loẹt. Những âm
thanh và cử động mau lẹ làm khiêu gợi sự chú ý của mọi người, nó làm cho ta
phải lưu tâm để nhìn xem đó là vật gì? Trái lại một người ngồi yên bất động
không bị nhìn thấy dễ dàng như vậy, cũng như những người mà ta đã quá quen
thuộc. Thí dụ như người đem thơ; thường khi người ta đã nhận được thư tín từ
buổi sáng, nhưng lại nói:
- Không có người nào, tuyệt đối không có ai đã đến đây.
Nếu quả đúng như vậy, thì thư tín đã được đem lại bằng cách nào? Phải chăng
bởi một người vô hình? Hay bởi một người mà sự có mặt đã quá quen thuộc đối
với ta đến nỗi thật sự ta không "nhìn" thấy y, hay không "cảm nhận" được y?
(Một cảnh binh luôn luôn dễ bị nhìn thấy vì con người thường có một lương
tâm không được yên ổn). Muốn tàng hình, người ta không nên hành động gì và
phải chận đứng mọi luồng sóng tư tưởng xuất phát ra từ bộ óc. Nếu người ta
để cho bộ óc hoạt động, nghĩa là nếu người ta suy nghĩ, tư tưởng, thì những
người chung quanh ta trở nên ý thức được sự có mặt của ta bằng thần giao
cách cảm (tức là nhìn thấy ta) và ta không tàng hình được.
Ở Tây Tạng, có những người có thể tàng hình tùy ý muốn, bởi vì họ có thể che
giấu những luồng sóng tư tưởng của họ. Cũng may mà những người ấy chỉ gồm
một thiểu số rất ít.
Thuật khinh thân cũng là một bí thuật khác nữa, và đôi khi nó được thực hành
như một phép tập luyện kỹ thuật. Đó là phương pháp di chuyển bất tiện vì nó
đòi hỏi quá nhiều cố gắng. Người hành giả chọn cách di chuyển bằng thể Vía,
cách này nhẹ nhàng ít khó khăn hơn, với điều kiện là phải có thầy giỏi chỉ
dẫn. Đó là trường hợp của tôi: Nhờ vậy nên tôi có thể xuất hồn đi ngao du
các cõi tùy ý muốn. Một mặt khác, mặc dầu những cố gắng khổ luyện là công
phu ráo riết, tôi cũng không thể tàng hình được. Làm thế nào để biến mất
dạng đúng vào lúc người ta muốn bắt buộc tôi làm một việc mà tôi không
thích, hẳn là cái đặc ân của thánh thần ban cho: Nhưng than ôi! Các ngài vẫn
từ chối không ban cho tôi cái ân huệ ấy! Tôi cũng không có thiên tư về âm
nhạc, như tôi đã nói trước đây. Tôi chỉ vừa mở miệng hát là đủ làm cho vị
Nhạc Sư nổi trận lôi đình, quát tháo ầm ĩ, nhưng cơn giận này còn chưa là
bao nhiêu so với cơn náo loạn mà tôi gây ra một ngày nọ. Trong khi tập đánh
chụp chõa, một loại nhạc khí mà tôi cho là bất cứ ai cũng có thể chơi được,
không biết tôi vụng về ra sao mà vô tình tôi chụp ngay cái đầu trọc của một
sư sãi ngồi gần bên! Một cơn xúc động và phản đối ầm ĩ đã diễn ra ngay sau
khi đó. Từ đó, người ta yêu cầu tôi một cách thẳng thắn là tôi hãy nên giới
hạn những sinh hoạt của tôi trong lãnh vực Thần Nhãn và y khoa mà thôi!
Chúng tôi cũng thực hành rất nhiều về pháp môn Yoga, một khoa học rất quan
trọng có thể cải tiến con người đến một mức độ phi thường. Riêng tôi, tôi
nghĩ rằng pháp môn Yoga không phải để dành cho người Tây phương, trừ phi
người ta đem vào đó rất nhiều sự thay đổi thích hợp với lối sinh hoạt và
tính chất của người phương Tây. Pháp môn này đã quen thuộc với người Tây
Tạng từ nhiều thế kỷ; họ đã quen tập luyện những tư thế Yoga kể từ thời thơ
ấu. Những thân thể, tứ chi, gân xương, bắp thịt của họ đã được tập luyện
thần thục. Trái lại, người Tây phương thử bắt chước tập những tư thế đó, sẽ
gặp nhiều sự hiểm nguy nhất là nếu họ đã lớn tuổi. Còn nói phép luyện hơi
thở, thì đó cũng là một điều rất nguy hiểm.
Tập thở theo phương pháp nhất định: đó là cái bí quyết của nhiều hiện tượng
lạ lùng. Nhưng, cần lập lại một lần nữa rằng phép luyện khí công có thể có
hại, nếu không nói là tối nguy hiểm đến tính mạng, trừ phi người hành giả
được sự chỉ dẫn của một bậc danh sư có nhiều kinh nghiệm. Nhiều du khách đến
viếng xứ này có viết truyện du ký, nói về những vị Lạt Ma trổ thuật phi
hành, họ có thể kiểm soát trọng lượng thân thể họ (đây không phải là thuật
khinh thân) và chạy hết tốc lực trong nhiều giờ, hai chân họ ít khi chấm
đất. Thuật phi hành đó đòi hỏi một công phu tập luyện lâu dài, và nhà phi
hành phải tự đặt mình trong một trạng thái bán thôi miên. Buổi chiều là giờ
tốt nhất để tập luyện vì hành giả có thể nhắm hướng sao mà chạy; mặt đất
phải bằng phẳng, không chướng ngại để khỏi làm gián đoạn trạng thái thôi
miên. Hành giả chạy như người mộng du (somnamblue). Y "hình dung" cái mục
tiêu hành trình, mà y giữ luôn luôn tỏ rạng trước con Mắt Thần thứ ba của y
bằng cách niệm không ngừng một câu thần chú đặc biệt. Y có thể chạy suốt
nhiều giờ mà không cảm thấy mệt mỏi. Phương pháp này chỉ tiện lợi hơn cách
xuất vía trên một điểm duy nhất là trong phép xuất vía thì linh hồn đi ngao
du các cõi; nó không thể mang theo những đồ vật dụng tùy thân như quần áo,
giấy tờ, chẳng hạn; trái lại, nhà phi hành có thể đem theo một số hành lý
bình thường, nhưng y lại có những sự bất tiện khác.
Nhờ họ biết cách hô hấp nên các nhà đạo sĩ Tây Tạng có thể ngồi trần truồng
trên những vùng núi non đầy băng tuyết ở chiều cao độ năm hay sáu nghàn
thước, trong khi đó họ cảm thấy nóng đến nỗi nước đá tan rã và họ tháo mồ
hôi ra như tắm.
Bạn có bao giờ thử nhắc lên một vật nặng, sau khi đã thở hết khí trời trong
phổi? Bạn hãy thử xem rồi bạn sẽ thấy rằng bạn không thể nào làm được. Nhưng
nếu bạn hít vào một hơi rất sâu và giữ lại hơi thở trong phổi bạn có thể
nhắc vật nặng ấy lên dễ dàng. Trong trường hợp bạn cảm thấy sợ sệt hay nóng
giận, sau khi hít một hơi thật là dài vào phổi, bạn hãy giữ lại hơi thở
trong mười giây đồng hồ. Kế đó, bạn để không khí thoát ra từ từ. Nếu bạn lập
lại phép thở này ít nhất là ba lần, quả tim bạn sẽ đập chậm hơn và bạn sẽ
cảm thấy bình tĩnh trở lại. Ai cũng có thể tập phép thở này một cách an
toàn, vô hại. Chính nhờ tôi biết kiểm soát hơi thở mà tôi đã có thể chịu
đựng những sự tra tấn của người Nhật Bổn và những sự gian khổ trong các trại
giam tù binh hồi đệ nhị thế chiến. Tôi có thể nói điều ấy do kinh nghiệm bản
thân.
Thời giờ đã đến để cho tôi dự cuộc thi, nó sẽ chánh thức đưa tôi lên chức vị
Lạt Ma. Trước khi dự thi tôi phải đến nhận lãnh ân huệ của đức Đạt Lai Lạt
Ma. Mỗi năm, đấng Khôn Lường ban ân huệ cho tất cả các sư sãi Tây Tạng, Ngài
ban riêng cho từng người chứ không ban chung cho tất cả như đức Giáo Hoàng ở
La Mã.
Trong đa số trường hợp, ngài ngồi trên ngôi, tay cầm một cái cần dài như cái
đầu cần câu, có buộc một tua vải ở một đầu, và để cái tua ấy chấm lên đầu
của các sư sãi và tín đồ hành hương. Ngài đặt một bàn tay lên trán của những
người mà Ngài muốn ban danh dự hoặc những vị chức sắc cấp cao. Ban ân huệ
với cả hai bàn tay để lên trán người nào là một đặc ân hiếm có: Ngài ban cái
ân huệ đó lần đầu tiên trong đời tôi và nói:
Con hỡi, con đã làm việc rất giỏi, con hãy ráng làm giỏi hơn nữa trong kỳ
thi này để chứng minh sự tin tưởng mà chúng ta đặt nơi con.
Ba ngày trước ngày sinh nhật năm tôi mười sáu tuổi, tôi dự thi cùng với mười
bốn thí sinh khác. Những gian phòng thi cá nhân có vẻ càng nhỏ hơn trước,
chắc hẳn là bởi vì tôi đã lớn.
Mỗi buổi sáng, ban khảo thi đưa cho chúng tôi những đầu đề các bài thi để
làm trong ngày. Các bài thi sẽ được góp nhặt vào buổi chiều. Chúng tôi chỉ
được ăn món Tsampa mỗi ngày một lần, còn trà pha bơ thì uống tự do tùy
thích. Tôi phải ở lại tất cả mười ngày trong phòng thi.
Cuộc thi bắt đầu với những bài vở về môn y khoa thường thức, môn tôi phải
học mà tôi đã nắm vững các đầu đề và môn thần học. Trong suốt năm ngày kéo
dài vô tận, tôi không được một chút nghỉ ngơi. Qua ngày thứ sáu, một trong
những thí sinh bị cơn khủng hoảng thần kinh nó làm cho chúng tôi xúc động.
Từ một phòng thi cá nhân ở bên cạnh phòng tôi, phát ra những tiếng thét lớn
và rú lên rợn người. Tôi nghe có tiếng chân người dồn dập, những giọng nói
và tiếng mở cửa. Có tiếng nói êm dịu, vỗ về, an ủi của một người; kế đó là
những tiếng khóc thổn thức nối tiếp theo những tiếng kêu rú. Thế là, cuộc
thi đã chấm dứt đối với người thí sinh ấy. Đối với tôi, phần thứ nhì của
cuộc thi mới bắt đầu. Người ta đem đầu đề thi cho tôi trong ngày đó trể mất
một giờ. Siêu hình học, Yoga. Tất cả là chín môn phái Yoga. Và tôi được chấm
ưu điểm trong tất cả các môn!
Người Tây Phương chỉ biết một cách nông cạn về năm môn phái Yoga: Pháp môn
Hatha Yoga để tu luyện xác thân; Kundalimi Yoga để luyện các năng khiếu thần
thông, như Thần Nhãn, thần nhỉ, ... Lâya Yoga để luyện tinh thần và trí nhớ
sắc bén, Râja Yoga để chuẩn bị con người đạt tới minh triết và Samadhi Yoga
đưa đến trạng thái giác ngộ tối cao, do đó hành giả thấu truyền ý nghĩa và
sự thật của những gì chờ đợi y ở bên ngoài cuộc đời. Chính sự thực hành môn
Samadhi Yoga giúp cho hành giả đạt tới chân lý tối thượng vào lúc y từ giã
kiếp sống cõi trần; nhờ pháp môn này con người có thể thoát ra vòng luân hồi
sinh tử, trừ phi y quyết định trở lại thế gian với một mục đích nhất định,
chẳng hạn để giúp đỡ, phụng sự nhân loại.
Trong năm ngày còn lại, tôi rất bận rộn làm những bài thi của tôi. Dầu cho
những cuộc thi kéo dài đến mười ngày cùn có lúc chấm dứt, và buổi chiều ngày
thứ mười khi vị Lạt Ma phụ trách đến góp bài, y được tiếp đón với những nụ
cười sung sướng thoải mái. Lần đầu tiên, người ta dọn cho chúng tôi ăn rau
cùng với món Stampa là món ăn căn bản của chúng tôi trong suốt mười ngày
qua. Đêm ấy, tôi ngủ một lúc say sưa ngon lành. Tôi không nghi ngờ về kết
quả cuộc thi nhưng chỉ e ngại về cách sắp hạng; vì tôi được lệnh phải có tên
trong những người đỗ đầu. Thi viết xong, chúng tôi được nghỉ ngơi trọn một
tuần lễ để lấy lại sức. Kế đó là trọn hai ngày thi về môn quyền thuật võ
nghệ. Ngoài ra các cuộc đấu võ, còn có môn "điểm huyệt" là môn bí truyền làm
cho người ta trở nên không còn cảm giác và vô tri bất động.
Hai ngày kế đó dành cho phần sát hạch về những điểm yếu kém trong các bài
thi viết. Mỗi thí sinh đều bị hạch hỏi, chất vấn trong suốt hai ngày liền.
Sau cùng, sau một tuần lễ nghỉ ngơi nữa, kết quả cuộc thi được công bố. Tôi
lấy làm vui mừng vô hạn, một sự vui mừng mà chúng tôi không ngần ngại biểu
lộ ra ngoài một cách ầm ĩ, khi tôi được biết tôi đỗ thủ khoa. Kết quả này
làm tôi sung sướng vì hai lý do: Trước hết nó chứng minh rằng Minh Gia Đại
Đức là vị đạo sư giỏi độc đáo hơn tất cả các vị khác, và kế đó là đức Đạt
Lai Lạt Ma sẽ hài lòng về cả hai thầy trò chúng tôi.
Vài ngày sau tôi đang làm việc trong phòng của sư phụ tôi thì cánh cửa thình
lình mở to và một sứ giả mồ hôi nhễ nhại, bụi bậm đầy mình, hộc tốc bước vào
vừa le lưỡi thở dốc vừa nói:
- Bạch ngài lạt ma y sĩ Lâm Bá, có thông điệp của đức thậm thâm.
Y lấy trong áo ra và cầm đưa cho tôi một bức thư đọc trong một khăn choàng
bằng lụa theo nghi lễ thường thức. Kế đó, y quay gót lui ra.
Tôi đặt cái thơ xuống bàn, nhưng chưa mở ra vội. Thơ ấy gởi cho tôi, nhưng
nó có thể nói gì trong đó? Chỉ thị bảo tôi phải học thêm các môn học thuật
khác nữa? Hoặc làm việc nhiều hơn nữa chăng?
Sư phụ tôi mỉm cười về sự băn khoăn do dự của tôi; tôi bèn cầm đưa gọn gói
cho người, luôn cả thơ và cái khăn choàng. Sư phụ mở bì thư ra có hai mảnh
giấy xếp. Người xem và nói:
- Hay lắm, con hãy an tâm. Chúng ta phải đi đến điện Potala ngay bây giờ,
không trễ một chút. Ta cũng được mời cùng một thể.
Sư phụ gõ một tiếng còng; một người nô bộc xuất hiện. Sư phụ bèn ra lệnh cho
y lập tữ thắng yên hai con ngựa bạch sau khi đã thay áo và chọn hai cái khăn
choàng đẹp nhất, chúng tôi đến thông báo cho vị sư trưởng biết rằng đấng
Thậm Thâm cho gọi chúng tôi đến điện Potala. Người hỏi:
- Quý vị đi đến điện ngay bây giờ? Lạ thật, mới ngày hôm qua đây, đấng Khôn
Lường hãy còn ở vườn Ngọc Uyển. Nhưng nếu quý vị có thơ mời, thì... chắc hẳn
đây là một việc rất long trọng.
Những sư sãi giữ ngựa đợi chúng tôi ngoài sân với hai con ngựa trắng. Chúng
tôi lên yên và cho ngựa đi xuống dưới chân đồi. Trong chốc lát chúng tôi đã
đến điện Potala. Thật ra từ chỗ tu viện của chúng tôi đến điện không xa, lẽ
ra tôi không cần phải chịu nhọc để ngồi vững trên yên ngựa với một quãng
đường ngắn như thế! Nhưng có điều tiện lợi duy nhất là chúng tôi có thể cưỡi
ngựa đi lên cái cầu thang lớn nó đưa chúng tôi đến tận nơi, gần tới nóc điện
Potala. Khi chúng tôi vừa đặt chân xuống đất, những người gia nô đã đợi
chúng tôi từ trước, bèn bước đến đỡ lấy cương ngựa dắt đi và chúng tôi được
đưa thẳng vào tư thất của đấng Thậm Tthâm. Tôi bước vào một mình, quỳ xuống
đặt cái khăn choàng dưới chân Ngài rồi cuối đầu đảnh lễ Ngài như thường lệ.
Ngài nói:
- Con hãy an tọa, hỡi Lâm Bá. Ta rất hài lòng về con và Minh Gia Đại Đức,
nhờ sư phụ con một phần nào mà con mới được thành công trong kỳ thi vừa qua.
Chính ta đã đích thân xem các bài vở của con.
Nghe Ngài nói, tôi cảm thấy một cơn rùng mình chạy dọc theo tủy xương sống.
Tinh thần hài hước của tôi có đôi khi đặt sai chổ; đó là một trong những
điểm yếu kém của tôi, theo như lời người ta thường nói. Sự hài hước ấy đã
biểu lộ trong kỳ thi vừa qua vì trong khi giải đáp các đầu đề, tôi đã có
viết nhiều câu hơi có vẻ xúc phạm! Đức Đạt Lai Lạt Ma chắc hẳn đã đọc được
tư tưởng của tôi nên Ngài bật cười và nói:
- Phải đó, tinh thần hài hước của con đã biểu lộ không đúng lúc, nhưng...
Ngài ngừng lại trong một cơn yên lặng kéo dài, trong khi đó tôi chờ đợi một
sự chẳng lành.
- Nhưng tất cả những câu giải đáp của con đều làm cho ta thích thú.
Tôi tiếp chuyện suốt hai giờ đồng hồ với Đức Đạt Lai LaÏt Ma; kế đó ngài cho
gọi sư phụ tôi để dặn dò chỉ thị về cách sắp đặt việc học của tôi. Tôi phải
chịu một cuộc thử thách về sự Chết Giả để viếng nhiều tu viện khác và thực
tập về môn cơ thể học với bọn Âm Công chẻ xác người. Những người này thuộc
về một giai cấp hạ tiện, và công việc của họ có phần đặc biệt đến nổi Đức
Đạt Lai Lạt Ma đặc cách cho phép tôi làm việc chung với họ mà vẫn giữ y
nguyên chức vị Lạt Ma của tôi. Ngài ra lệnh cho những Âm Công "Hãy dành cho
vị lạt ma Lâm Bá mọi sự giúp đỡ và trợ lực cần thiết; tiết lộ cho vị lạt ma
những bí mật trong các cơ thể cho người có thể biết được những nguyên nhân
vật chất của những trường hợp chết chóc; và dành cho người bất cứ một tử thi
nào mà người cần dùng đến để học hỏi, khám nghiệm."
Trước khi nói đến cách giải quyết việc chôn cất tử thi ở xứ Tây Tạng, thiết
tưởng cũng cần nói qua vài chi tiết phụ thuộc về quan niệm của người Tây
Tạng đối với sự chết. Thái độ của họ về sự chết hoàn toàn khác hẳn với thái
độ của người Tây phương. Họ quan niệm rằng thể xác con người chỉ là một "lớp
vỏ", cái vỏ vật chất bên ngoài bao bọc cái linh hồn bất diệt. Một tử thi còn
kém giá trị hơn một miếng vẻ rách. Trong trường hợp chết tự nhiên nghĩa là
không phải do tai nạn bất đắc kỳ tử, thì đây là diễn biến của sự chết, theo
quan niệm của người Tây Tạng: Cái thể xác mệt mỏi, già cỏi, đã trở nên bất
tiện cho linh hồn đến mức không còn được để giúp cho linh hồn tiến hóa nữa.
Đó là lúc cần phải loại bỏ cái lớp vỏ bên ngoài và xuất ra khỏi thể xác vật
chất. Cái hình dáng của linh hồn lúc đó giống y như hình thù của thể xác, và
những người có Thần Nhãn có thể nhìn thấy được. Đến lúc chết, thì sợi dây
bạc nối liền linh hồn với thể xác trở nên mỏng teo dần và đức đoạn: Linh hồn
đã giải thoát và thăng lên cõi khác. Đó tức là sự chết, nhưng cũng là sự
sinh ra trong một cuộc đời mới vì sợi dây bạc ấy cũng giống như cái cuống
nhau bị cắt đi để cho đứa hài nhi sơ sinh có thể bắt đầu một cuộc sống cá
nhân riệng biệt. Cũng chính vào lúc đó, cái Ánh Sáng Sinh Lực thoát ra từ
trên đỉnh đầu. Ánh sáng ấy cũng có thể nhìn thấy được bởi những người có
nhãn quang siêu đẳng.
Người Tây Tạng tin rằng phải sau một thời gian ba ngày, cái thể xác mới thật
sự chết hẳn, nghĩa là mọi hoạt động của cơ thể mới hoàn toàn chấm dứt, và
linh hồn mới hoàn toàn rút lui ra khỏi cái lớp vỏ xác thịt vật chất. Lạt Ma
Giáo Lamaisme của xứ Tây Tạng cho rằng con người có ba thể căn bản: Xác thể
cấu tạo bằng xương thịt, nhờ đó linh hồn có thể nương theo để học hỏi những
bài học đắng cay, đau khổ của cuộc đời; dục thể được cấu tạo bằng những thèm
khát, ham muốn, tình cảm, nói chung là những dục vọng của con người; và linh
thể, tức là thể tâm linh, hay (linh hồn bất diệt). Người chết phải trải qua
ba giai đoạn: Cái xác thể sẽ phải tiêu diệt; dục thể cũng sẽ tan rã và linh
thể hay linh hồn đi theo con đường đưa đến cõi tinh thần.
Một hôm vị Lạt Ma phụ trách về nghi lễ cầu siêu cho người chết, cho mời tôi
và nói:
- Nay đã đến lúc sư huynh cần học hỏi những phương pháp thực tế về sự giải
thoát của linh hồn. Xin mời sư huynh đi theo tôi.
Sau khi đã đi qua những hành lang dài và đi xuống những cầu thang trơn trợt,
chúng tôi đến chỗ cư xá của các vị y sĩ. Tại đây, trong một phòng bệnh, một
vị sư già đang nằm hấp hối. Một cơn bệnh đã làm cho ông ta yếu đi nhiều,
sinh lực của ông ta đã gần cạn và tôi nhận thấy màu sắc trên hào quang của
ông ta đã phai mờ. Dẫu sao, ông ta cũng phải gượng sống cho đến khi không
còn chút sinh lực nào. Vị lạt ma đi cùng với tôi nhẹ nhàng nắm lấy hai bàn
tay ông ta và nói:
- Sư ông đã gần được giải thoát khỏi những dày vò của thể xác. Sư hãy chú ý
nghe những lời tôi nói đây, để cho nhẹ bước siêu thăng. Chân sư ông đã lạnh.
Cuộc đời sư ông đã tiến gần đến chỗ kết thúc cầu cho linh hồn sư ông được
bình an, vì sư ông không có gì phải sợ sệt. Sinh lực đã rút ra khỏi hai chân
sư ông, và đôi mắt sư ông đã mờ. Thân hình sư ông đã lạnh, sự sống đã rút
lui dần và sắp tắt hẳn. Sư ông hỡi, cầu cho linh hồn sư ông được bình an, vì
sự giải thoát ra khỏi cuộc đời thế tục để bước qua cõi tinh thần vốn không
có gì đáng sợ. Những bóng tối của cõi u minh vô tận đã lởn vởn trước mắt sư
ông và hơi thở của sư đã tắt nghẽn trong cuống họng. Nay đã đến lúc mà linh
hồn sư sẽ được tự do thụ hưởng những phúc lạc của cõi giới bên kia. Cầu cho
sư được bình an. Thời giờ giải thoát của sư đã đến...
Vị Lạt Ma vừa nói luôn miệng không ngớt, vừa lấy bàn tay vuốt nhẹ sau gáy
của người hấp hối, từ hai vai lên đến đỉnh đầu, theo một phương pháp đã trắc
nghiệm để đưa linh hồn ra khỏi xác một cách êm ái nhẹ nhàng, không đau đớn.
Tất cả những cạm bẫy trên đường đi qua cõi âm được nói cho ông lão biết
trước, là làm cách nào để tránh những cạm bẫy đó. Lộ trình đã được vạch sẵn
một cách chính xác, do các vị lạt ma có thần thông đã từng bước qua bên kia
cửa tử, và nay các vị ấy dùng thần giao cách cảm để tiếp tục nói chuyện từ
cõi bên kia với người trần gian chúng ta. Vị Lạt Ma nói tiếp:
- Sư ông không còn nhìn thấy gì nữa, và hơi thở của sư đã ngưng. Toàn thân
sư ông đã lạnh và những tiếng động ồn ào của thế gian không còn vọng tới tai
sư ông nữa. Sư ông hãy được bình an, vì thần chết nay đã đến rước sư ông. Sư
ông hãy noi theo con đường mà chúng tôi đã vạch sẵn, và sư ông sẽ tìm thấy
yên tĩnh phúc lạc ở đầu đường bên kia.
Vị lạt ma vẫn tiếp tục vuốt nhẹ cái gáy và hai vai người chết. Vầng hào
quang của ông lão trở nên mờ dần và sau cùng thì biến mất dạng. Khi đó, theo
một nghi lễ cổ truyền tự muôn đời, vị lạt ma thốt ra một tiếng kêu ngắn và
to để cho linh hồn còn đang bám víu lấy thể xác có thể được giải thoát hoàn
toàn. Ở phía trên cái xác thân bất động, nguồn sinh lực tập trung lại thành
một khối giống như một đám mây khói vần vũ với muôn nghìn vòng xoáy, trước
khi tượng hình giống như cái thể xác mà nó còn dính liền bằng sợi dây bạc
trở nên mỏng teo lần lần; sau cùng, cũng như một trẻ sơ sinh bước vào đời
khi cái cuống nhau rún bị cắt đứt, ông lão bước vào cuộc sống ở cõi giới bên
kia. Sợi dây bạc vào lúc cuối cùng trở nên mỏng như một sợ tơ đã đứt hẳn và
cái thể vô hình từ từ biến mất dạng ví như một đám mây lướt trên không gian
hay một đám khói hương tản mát trong đền thờ. Vị lạt ma tiếp tục chỉ thị cho
vong hồn ông lão bằng thần giao cách cảm và dìu dắt linh hồn ông trong giai
đoạn đầu của cuộc phiêu lưu qua bên kia cửa Tử.
- Sư ông đã chết rồi. Ở đây không còn gì cho ông nữa cả. Những sợi dây trói
buộc của xác thịt đã bị cắt đứt. Sư ông hiện đang ở bên cõi Trung Giới. Sư
hãy tiếp tục đi theo con đường của sư, còn chúng tôi sẽ ở lại dương trần. Sư
hãy noi theo con đường đã vạch. Hãy từ giã cõi đời thế gian mộng ảo này và
bước vào cõi giới Tinh Thần. Sư ông đã chết. Hãy tiếp tục tiến bước trên con
đường đã vạch.
Những luồng khói hương trầm bốc lên thành những vòng tròn; mùi hương thơm
bát ngát đem lại sự yên tĩnh cho bầu không khí rối loạn. Từ đằng xa vọng lại
tiếng trống khi mờ khi tỏ. Từ trên nóc tu viện rất cao, một tiếng kèn trầm
hùng phát ra một âm thanh vang lừng dội khắp bốn phương. Do các hành lang
vang dội đến tay chúng tôi tất cả những tiếng động ồn ào của cuộc sống hằng
ngày, chen lẫn với tiếng giầy ủng của các sư sãi và tiếng kêu của những con
yak. Nhưng gian phòng nhỏ của chúng tôi lúc ấy đắm chìm trong im lặng. Một
cách yên lặng của nhà mồ. Trong cái bối cảnh im lặng đó, những chỉ thị bằng
thần giao cách cảm của vị lạt ma là những tiếng thổn thức phớt qua cái yên
tịnh của gian phòng, cũng như ngọn gió nhẹ thoáng qua mằt hồ yên lặng. Sự
chết; lại có thêm một ông lão vừa bước vào cái chu kỳ bất tận của vòng luân
hồi sinh tử, có lẽ sau khi đã thu thập những bài học kinh nghiệm của một
kiếp người, nhưng còn phải tiếp tục con đường tiến hóa của mình với những
công phu cố gắng trường kỳ bất tận cho đến khi đạt tới quả vị Phật.
Sáng ngày thứ tư, một Âm Công đến để lấy xác. Người này thuộc về thành phần
của giai cấp Âm Công, họ sống trong một khu biệt lập ở ngã tư đường Lingkhor
và Dechhen Dzong, khi y đến nơi, các vị lạt ma ngưng việc dìu dắt linh hồn
người chết và y có thể lãnh lấy tử thi. Y bọc tử thi trong một cái bao vải
trắng, nhẹ nhàng khiên cái bọc trên hai vai rồi bước ra. Một con yak đã đợi
sẵn ở ngoài. Không chút do dự, y cột cái bọc trên lưng con yak rồi cả hai
đều đi đến khu nghĩa địa, tại đây những Âm Công khác đã chực sẵn và chờ y
đến. "Nghĩa địa" này chỉ là một khoảnh đất trống ở giữa những núi đồi bao
bọc chung quanh, trên đó có sẵn một phiến đá rộng và bằng phẳng khá lớn để
có thể đặt nằm trên đó cái xác của một người khổng lồ. Những cây cọc được
cắm trong bốn cái lỗ đào ở bốn gốc. Một phiến đá khác có đục những hang lỗ
sâu đến nữa phần bề dày của nó.
Khi cái tử thi được đặt trên phiến đá đầu tiên, người ta tháo bỏ cái cọc
vải, cột hai bàn chân với hai bàn tay vào bốn cái cọc, và viên Âm Công
trưởng mới mổ cái tử thi bằng một con dao lớn. Y cắt những đường dài trên tử
thi để có thể lột da từng miếng cho dễ. Kế đó, y chặt đứt tay chân và cắt
thành từng mảnh. Sau cùng, cái đầu được chặt lìa khỏi xác và chẻ ra làm đôi.
Khi vừa nhìn thấy người Âm Công khiên cái tử thi đến nơi, những con kên kên
bèn hạ cánh bay thấp xuống và đậu tren những tảng đá lớn, tại đó chúng chờ
đợi một cách kiên nhẫn như những khán giả của một sân khấu lộ thiên. Chúng
cũng có tôn ti trật tự đàng hoàng và áp dụng một kỹ luật rất nghiêm ngặt
giữa bọn chúng với nhau. Nếu một con nào "phạm thượng" muốn bước đến gần tử
thi trước những con "chúa đảng" thì lập tức liền xảy ra một cuộc xô xát dữ
dội.
Trong khi các con kên kên kiếm chỗ đậu, thì người Âm Công trưởng đã phanh
cái xác chết. Y thọc hai bàn tay vào trong lồng ngực tử thi, móc lấy quả tim
và đưa ra cho con kên kên chúa, con này liền nhảy xuống đất một cách nặng nề
và đủng đỉnh tiến đến gần để nhận lãnh lấy phần ưu tiên của nó. Kế đó con
thứ nhì xuất hiện để nhận lấy lá gan rồi lui vào một góc tản đá để ăn riêng
một mình. Hai trái thận và ruột cũng được chia ra cho những con kên kên vào
bậc "đàn anh". Những miếng thịt được cắt ra thành từng mảnh và phân phát cho
cả đàn. Thỉnh thoảng, có một con đã ăn xong phần thức ăn của mình, lại đủng
đỉnh bước tới để kiếm thêm một miếng óc hoặc một con mắt, trong khi một con
khác vừa đáp xuống vừa vỗ cánh để kiếm thêm một miếng thịt nữa. Trong khoảnh
khắc, tất cả các bộ phận và da thịt đều trôi vào bụng kên kên, chỉ còn lại
có những xương xẩu rãi rác trên phiến đá. Người Âm Công, sau khi đã chặt
những khúc xương thành tững mảnh nhỏ liền đem nhét các mảnh vụn ấy vào những
lỗ trống trên tấm phiến đá thứ nhì, và dùng búa lớn để nghiề;n nát thành một
thứ bột nhuyễn mà loài kên kên rất thích ăn!
Những Âm Công này đều là những tay chuyên môn thiện nghệ về khoa chặt xác
người. Họ rất hãnh diện về nghề nghiệp của họ và chính là để thỏa mãn cá
tính mà họ xem xét tất cả các bộ phận trong tử thi để xác định nguyên nhân
của sự chết. Nhờ có nhiều năm kinh nghiệm nên họ có thể khám nghiệm rất mau
chóng. Lẽ dĩ nhiên không có gì bắt buộc họ phải chú trọng đến những vấn đề
này, nhưng truyền thống của nghề nghiệp muốn họ tìm ra cái nguyên nhân đã
làm cho "linh hồn một người phải rời khỏi thể xác". Nếu một người chết vì
thuốc độc hoặc vì lý do bị ám sát hay do tai nạn, thì sự kiện ấy được phát
hiện mau chóng. Sự khôn ngoan khéo léo của họ đã giúp ích cho tôi rất nhiều
trong khi tôi học hỏi với họ. Không bao lâu, tôi đã trở nên rất thành thạo
về nghệ thuật mổ xẻ tử thi. Người Âm Công trưởng đứng gần bên tôi và chỉ dẫn
cho tôi những điểm lý thú:
- Thưa Đại Đức Lạt Ma, người này chết vì bệnh đứng tim. Đại Đức hãy nhìn
xem, chúng ta sẽ cắt cái mạch máu này... đây rồi... Đại Đức có thấy chăng
cục huyết đặt đã chặn sự lưu thông trong huyết quản?
Hoặc trong một trường hợp khác:
- Có một cái gì bất thường ở ngoài người đàn bà này, thưa Đại Đức Lạt Ma.
Chắc hẳn là một hạch tuyến đã hoạt động sai lạt. Chúng ta hãy thử lấy ra xem
thì biết.
Kế đó, sau lột lúc cắt ra một khối thịt khá lớn, y nói:
- Đây là cái hạch tuyến, ta hãy cắt ra xem. À, phần trung tâm của nó rất
cứng.
Và sự việc cứ tiếp diễn như thế. Những Âm Công này lấy làm hãnh diện mà chỉ
cho tôi xem tất cả mọi sự gì mà họ có thể, vì họ biết rằng tôi học hỏi với
họ theo lệnh dạy của đấng Thậm Thâm. Nếu trong khi tôi vắng mặt, có một tử
thi đặc biệt lý thú vừa được đem đến, thì họ để dành riêng cho tôi. Như vậy
tôi có thể khám nghiệm hàng trăm xác chết, điều này đã giúp cho tôi trở nên
một nhà giải phẫu ưu tú về sau này! Sự huấn luyện này còn vô cùng hữu hiệu
hơn là sự học của những sinh viên y khoa, họ phải chia các tử thi với nhau
trong những phòng mổ xẻ của các bệnh viện. Tôi tin chắc rằng về môn cơ thể
học, tôi đã học hỏi với các Âm Công nhiều hơn là trong trường y khoa có
trang bị đầy đủ y cụ tối tân mà tôi đã theo học trong những năm về sau.
Ở Tây Tạng, người ta không thể chôn xác người chết. Đất núi cằn cõi và lớp
đất phủ ở trên quá mỏng làm cho việc đào huyệt rất khó khăn. Việc hỏa táng
không thể thực hiện được vì những lý do kinh tế: Cây gỗ rất hiếm và muốn
thiêu một xác chết, người ta phải nhập cảng củi từ bên Ấn Độ rồi chuyên chở
sang Tây Tạng trên lưng những con yak xuyên qua các đường núi gập ghềnh xa
xôi. Vì đó, giá cả sẽ trở nên đắt kinh khủng. Người ta cũng không thể vứt
xác chết xuống sông, vì xác chết sẽ làm nhiễm độc nước sông cần thiết cho
người sống. Chỉ còn lại phương pháp đã diễn tả ở trên, tức là cống hiến xác
chết cho loài diều hâu và kên kên ăn thịt. Việc "điểu táng" này chỉ khác
biệt sự chôn cất bên tây phương trên hai điểm: Trước hết người tây phương
chôn xác người chết của họ bằng cách để cho loài sâu bọ đóng cái vai trò của
loài kên kên bên xứ chúng tôi. Điểm khác biệt thứ hai là khi người Tây
phương chôn xác, họ cũng chôn luôn cả mọi khả năng truy ra nguêy nhân của sự
chết, thành thử không ai có thể biết chắc rằng cái nguyên nhân ghi trên tờ
giấy khai tử có đúng sự thật hay không? Trái lại, những Âm Công bên Tây Tạng
luôn luôn xác định cái nguyên nhân thật sự của sự chết, và điều này không
bao giờ lọt ra khỏi tầm mắt của họ!
Những cách chôn cất này đều là thủ tục thông thường của tất cả mọi người dân
tây tạng trừ ra trường hợp của những vị Lạt Ma trưởng, là những đấng Hóa
Thân. Thi hài các vị này được ướp chất hương liệu và đặt trong những cái hòm
bằng thủy tinh để trưng bày trong các đền thờ hoặc ướp hương liệu xong rồi
đem phếch vàng. Công tác sau này rất lý thú và tôi đã tham dự nhiều lần như
vậy. Vài người Mỹ đã đọc những bản thảo của tôi về vấn đề này không tin rằng
đều ấy có thể thực hiện được. Họ nói rằng:
- Chính người Mỹ chúng tôi cũng không làm đuợc việc ấy, mặc dù chúng tôi có
những kỹ thuật tân tiến hơn.
Sự thật là người Tây Tạng chúng tôi không hề biết kỹ thuật sản xuất đại quy
mô, và chúng tôi chỉ là những người thợ khéo. Chúng tôi không có khả năng
chế tạo những đồng hồ tay với giá một đô la một chiếc. Nhưng chúng tôi có
thể sử dụng chất vàng để ướp xác chết.
Một buổi chiều vị Sư Trưởng gọi tôi lên và nói:
- Một vị hóa thân sắp sửa bỏ xác. Người ở tại tu viện Sera. Ta muốn con đến
xem cách họ ướt xác như thế nào.
Như vậy, một lần nữa tôi lại phải chịu đựng một cuộc hành trình khó nhọc
trên lưng ngựa để đến tận Sera. Khi tôi đến tu viện, người ta đưa tôi đến
tận phòng của vị sư trưởng đã già. Những màu sắc trên hào quang của ông ta
đã sắp tắt; một giờ sau ông ta từ giả cõi thế giới vật chất để bước qua cõi
tinh thần. Là một vị sư trưởng và là một nhà khoa học, ông ta không cần có
sự giúp đỡ để vượt qua cõi trung giới, cũng không cần chờ đợi ba ngày như
thường lệ. Thi hài ông ta để ngồi theo tư thế kiết dà trong một đêm, trong
khi các vị Đạt Ma đảm nhiệm việc canh chừng.
Qua ngày hôm sau, vào lúc tảng sáng, một cuộc diễn hành quan trọng đi qua
thánh thất của tu viện, đến tận thánh điện và qua những con đường bí mật
xuyên qua một cánh cửa ít khi dùng đến. Trước mặt tôi, hai vị Lạt Ma khiên
cái tử thi đặt trên một cái cáng. Tử thi vẫn để ngồi ở tư thế liên hoa. Sau
lưng tôi, các sư sãi hát thánh ca với một giọng trầm hùng; xen lẫn với âm
thanh trong vắt của một cái chuông bạt. Chúng tôi đeo những mảnh vải yểm tâm
vàng bên ngoài những áo tràng màu đỏ. Thân mình chúng tôi phát ra những cái
bóng đen lung lay và nhảy múa trên tường, những bóng đen này được phóng đại
quá cỡ và lệch méo do bởi những ánh đèn bơ và ánh đuốc lập lòe. Chuyến đi
xuống đường hầm kéo dài rất lâu. Sau cùng, cách chừng hai chục thước bề sâu
dưới mặt đất, chúng tôi đến trước một cánh cửa bằng đá đã khóa chặt. Sau khi
đã mở khoá, chúng tôi bước vào một văn phòng lạnh như băng. Các sư sãi đặt
cái tử thi xuống đất một cách vô cùng cẩn thận rồi rút lui, chỉ còn lại một
mình tôi với ba vị Lạt Ma. Hàng trăm ngọn đèn bơ được thấp lên tỏ ra một ánh
sáng vàng đục xấu xí. Tử thi được cởi quần áo ra và tắm rửa sạch sẽ. Do thất
khiếu tự nhiên trong thân thể người chết, người ta móc ra những bộ phận,
cùng ngũ tạng lục phủ rồi đem đựng trong những cái vạt rồi đóng chặt lại. Kế
đó, phía bên trong thân mình được rửa ráy cẩn thận để cho khô ráo rồi đổ vào
một thứ nhựa đặc biệt. Thứ nhựa này sẽ đông đặc lại, nhờ đó tử thi mới giữ
được cái vẽ tự nhiên như hồi còn sống. Khi chất nhựa vày trở nên khô và cứng
lại, thì người ta mới nhồi phía trong với đồ tơ lụa và luôn luôn canh chừng
để giữ cho khỏi mất cái hình dáng tự nhiên. Để cho chất tơ nhồi cứng, và
phía trong cho đặc lại, người ta lại đổ thêm chất nhựa. Kế đó, mặt ngoài xác
chết được phết một lớp nhựa cũng giống y như thế và để cho khô. Xong rồi,
trước khi dán tử thi thành những băng lụa rất tế nhuyễn, người ta phết lên
mặt ngoài một lớp nước đặc biệt để sau này có thể gở các băng lụa ra một
cách dễ dàng. Khi xét thấy tử thi đã nhồi đủ cứng người ta đổ thêm chất nhựa
nhưng lần này là một loại khác, và tử thi đã sẵn sàng bước qua giai đoạn thứ
hai của công tác ướp xác.
Trong một ngày và một đêm, tử thi được để yên tại chổ để cho nó được hoàn
toàn khô ráo. Khi người ta trở lại gian phòng, thì nó đã trở nên cứng rắn.
Khi đó tử thi mới được chở đi một cách trịnh trọng xuống phòng ướp xác.
Phòng ướp xác này rất nhỏ ở phía dưới phòng thứ nhất, thật ra là một cái hỏa
lò được xây cất theo một cách riêng để cho những ngọn lửa và nhiệt độ có thể
luân chuyển chung quanh các vách tường và như vậy để giữ cho gian phòng được
luôn luôn ở dưới một nhiệt độ cao.
Mặt đất của phòng ướp xác được đắp lên một thứ bột đặt biệt làm thành một
lớp bột rất dày. Tử thi được đặt ngồi ở giữa. Ở phía dưới, các sư sãi chuẩn
bị việc đốt lửa. Người ta nhồi vào lò một tạp chất gồm có muối (một thứ muối
đặc biệt được chế tạo tại một tỉnh ở Tây Tạng), các loại dược thảo và khoáng
chất. Khi gian phòng đã được nhồi đầy thứ tạp chất nói trên từ mặt đất lên
đến trần, chúng tôi bước ra ngoài hành lang, cánh cửa được đóng chặt và nêm
phong bằng con dấu triện của tu viện. Các sư sãi được lệnh đốt lửa. Trong
giây lát, người ta nghe tiếng củi lửa cháy tí tách và khi ngọn lửa đã lên
cao có tiếng bơ sôi sục. Quả thật, các nồi "súp de" được đun bằng phân con
yak và bơ phế thải. Suốt một tuần lễ, lửa cháy dữ dội trong lò và những
luồng hơi nóng tràn vào trong những khe vách tường trống ruột của phòng ướp
xác. Cuối ngày thứ bảy, người ta ngưng đốt thêm lửa và ngọn lửa tàn lụi lần
lần. Nhiệt độ xuống thấp làm cho bức tường đá rên rỉ. Khi hành lang đã nguội
lại để có thể đi qua, người ta còn phải đợi thêm ba ngày nữa trước khi nhiệt
độ trong phòng trở lại bình thường. Mười một ngày sau khi niêm phong, gian
phòng lại được mở khóa và gian phòng lại được mở. Các sư sãi thay phiên nhau
để cạo sạch chất bột đã đặt cứng. Họ cạo bằng tay chứ không dùng đồ khí cụ
để không làm sứt mẻ các xác ướp.
Trong hai ngày liền, họ đã gở xong những tảng muối và tạp chất đã giòn tan.
Sau cùng gian phòng đã trống trơn, chỉ còn lại cái tử thi ngồi lại chính
giữa theo thế liên hoa. Người ta cẩn thận nhắc cái xác lên và chở lên gian
phòng thứ nhất, tại đây nó được quan sát dễ dàng hơn dưới ánh sáng của các
ngọn đèn bơ.
Những băng lụa được tháo gở ra từng băng một, cho đến khi cái xác hoàn toàn
trơ trọi. Việc ướp xác đã thành công hoàn toàn. Trừ ra cái màu sắc trở nên
sậm hơn nhiều, tử thi có cái hình dáng tự nhiên như người sống, dường như nó
có thể sống dậy bất cứ lúc nào. Một lần nữa nó được phết thêm một lớp nhựa
và các sư sãi kim hoàng chuyên môn mới bắt đầu hàng động. Thật là một kỹ
thuật xảo điệu vô cùng! Và có ai khéo léo như các sư sãi kim hoàng này, họ
có thể đắp một lớp vàng lên trên xác chết! Họ làm việc từ từ, phết lên tử
thi một lớp vàng tinh lọc nhất và mịn màng tinh tế nhất. Bất cứ ở đâu, vàng
này cũng đáng giá một gia tài. Đối với chúng tôi, nó chỉ có một tầm mức quan
trọng của một loại kim khí thiêng liêng, một tinh khí mà tính chất bất hư
hoại tượng trưng cho cái định mệnh tâm linh của con người.
Những sư sãi kim hoàn làm việc với một kỹ thuật rất tinh vi, và săn sóc từng
chi tiết nhỏ nhặt. Khi hoàn thành công tác, họ để lại cho chúng tôi một hình
tượng mạ vàng coi tự nhiên như người sống, không thiếu một nét hay một vết
nhăn; điều này lại chứng minh cái xảo thuật tân kỳ của họ.
Thân hình nặng trĩu và với cái số lượng vàng đắp lên được chở đến phòng các
đấng hóa thân và đặt lên ngồi trên một ngai vàng cũng như những xác ướp được
đặt tại đây từ trước. Trong số đó, có vài xác ướp đã có từ lúc bắt đầu lịch
sử thần thoại. Những xác ướp này được ngồi sắp hàng ví như những vị thẩm
phán nghiêm minh, quan sát xuyên qua những kẻ mắt hé mở, những tội lỗi sa
đọa của thời hiện kim. Chúng tôi chỉ nói chuyện thì thầm, và đi nhón gót
chân, dường như không muốn quấy rầy những người chết đang ngồi đó. Tôi cảm
thấy một sức hấp dẫn mãnh liệt của một trong các pho tượng vàng, nó gây cho
tôi một sự ám ảnh lạnh lùng. Tôi có cảm giác như pho tượng ấy vừa nhìn tôi
vừa mỉm cười dường như nó biết rõ tất cả. Bỗng nhiên có người sờ nhẹ vào vai
tôi làm tôi giật mình gần muốn té xỉu vì sợ hãi. Tôi quay đầu lại thì ra đó
là... Sư phụ tôi. Người nói:
- Đây là xác ướp của con hồi kiếp trước. Chúng ta vẫn biết rằng con sẽ tự
nhìn cái xác của mình!
Sư phụ dắt tôi đến một vị Hóa Thân ngồi bên cạnh cái xác ướp của tôi và nói:
- Còn đây chính là... ta.
Chúng tôi đều xúc động y như nhau, và từ từ lùi bước ra khỏi phòng, cánh cửa
lại được khóa chặt và niêm phong cẩn thận.
Sau đó, tôi thường có dịp trở lại phòng Hóa Thân để nghiên cứu những xác ướp
mạ vàng. Đôi khi tôi đến ngồi thuyền định suy tư một mình bên cạnh các vị
Hóa Thân. Mỗi vị đều được có một tiểu sử được ghi chép cẩn thận, và tôi đã
được dịp xem qua tiểu sử một cách vô cùng thích thú. Chính tại văn phòng này
mà tôi được xem tiểu sử tiền kiếp của sư phụ tôi, Lạt Ma Minh Gia Đại Đức,
do đó tôi biết những công trình, những đức hạnh và tài năng của người trong
kiếp trước, những danh vọng và chức vị mà người đã có, và người đã qua dời
trong trường hợp nào. Cũng ở tại đây, tôi đã đọc được tiểu sử tiền kiếp của
tôi, mà tôi nghiên cứu một cách say mê thích thú. Có tất cả chín mươi tám
xác ướp mạ vàng nằm trong gian phòng này, một gian phòng bí mật đào sâu
trong núi đá tận dưới lòng đất. Tôi đứng trước một pho lịch sử của xứ Tây
Tạng. Ít nhất tôi tin như vậy vì hồi đó tôi chưa biết rằng những thời kỳ sơ
khai nhất của lịch sử Tây Tạng và sau này mới được tiết lộ cho tôi biết.
|