Tôi Sử Dụng Thần Nhãn
Một buổi sáng, tôi đang lúc rảnh rang, Minh Gia Đại Đức đến tìm tôi và nói:
- Chúng ta hãy đi chơi một vòng. Thầy có một việc để cho con làm.
Tôi rất vui mừng với ý nghĩ được đi dạo chơi với Sư Phụ. Chúng tôi xuống
dưới chân đồi, và sau khi đi vòng quanh nhiều đường phố ở thủ đô Lhassa,
chúng tôi đi ngang qua trụ sở của Phái Bộ Ngoại Giao Trung Hoa. Sư Phụ tôi
vừa đi vừa nói:
- Một phái đoàn Trung Hoa vừa mới đến, chúng ta hãy nhìn qua mỗi nhân viên
phái đoàn để xem họ là người như thế nào.
Ấn tượng của tôi đầu tiên rõ ràng là không thuận lợi. Ở bên trong trụ sở của
phái bộ, các nhân viên Trung Hoa đi bách bộ qua lại trong các phòng, vẻ mặt
tự đắc, hoặc đang lui cui mở các rương trắp, và các thùng đồ đạc. Tôi nhận
thấy họ có một số khí giới khá nhiều, đủ để võ trang một đạo binh nhỏ. Vóc
người nhỏ thó của tôi cho phép tôi mở một cuộc "dò thám" dễ dàng hơn một
người lớn. Thật vậy, tôi đã lén bò lại gần một cửa sổ mở, xuyên qua đó tôi
có thể rình xem họ cho đến khi một người trong bọn họ ngẩng đầu lên. Khi
người ấy nhìn thấy tôi, y nổi giận thốt lên một câu nguyền rủa bằng tiếng
Trung Hoa, có tính cách xúc phạm đến tổ tiên của tôi. Y còn nhìn quanh tìm
một vật gì để ném tôi, nhưng tôi đã rút lui trước khi y có thể hạ thủ.
Trên đường về, tôi nói với Minh Gia Đại Đức:
- Sư Phụ biết không, họ có những vầng hào quang màu đỏ! Và họ có một lối
vung dao găm rất dễ sợ!
Sư Phụ tôi có vẻ trầm tư trên suốt con đường về. Sau buổi ăn chiều, người
nói với tôi:
- Thầy đã suy nghĩ nhiều về phái đoàn Trung Hoa, và thầy sẽ đề nghị với đấng
Khôn Lường (một trong những danh từ sùng kính để chỉ đức Đạt Lai Lạt Ma) hãy
sử dụng năng khiếu Thần Nhãn của con. Trong trường hợp đó, con có thể quan
sát họ xuyên qua một bức bình phong được chăng?
Tôi đáp:
- Nếu Sư Phụ nghĩ rằng con có thể, thì chắc chắn con sẽ làm được.
Tôi không gặp Sư Phụ tôi suốt cả ngày hôm sau; qua ngày kế đó, người để tôi
làm việc suốt buổi sáng và sau buổi ăn trưa, người nói với tôi:
- Lâm Bá, trưa nay chúng ta sẽ đi chơi một vòng. Đây là một cái khăn choàng
tốt hảo hạng. Không phải cần có thần thông mới biết rằng chúng ta sẽ đi đâu.
Con có mười phút để chuẩn bị, rồi sau đó hãy đến gặp thầy. Thầy cần phải nói
trước với vị Sử Trưởng.
Một lần nữa, chúng tôi lại noi theo con đường cheo leo đi xuống chân núi.
Một con đường tắt xuyên qua sườn núi phía tây nam đưa chúng tôi đến vườn
Ngọc Uyển gần bên điện Potala rất mau chóng. Đức Đạt Lai Lạt Ma rất thích
khu vườn này, tại đây Ngài thường đến thượng ngoạn trong những giờ nhàn rỗi.
Trong vườn Ngọc Uyển có một cái hồ sen nhân tạo rất đẹp, với hai cù lao,
trên mỗi cù lao có dựng lên một nơi nhà mát để nghĩ hè. Đức Đạt Lai Lạt Ma
thường đến những cù lao trên hồ sen này, tại đây Ngài tham thiền nhiều giờ
mỗi ngày. Bên trong vườn Ngọc Uyển, có dinh trại của toán Ngự Lâm Quân gồm
độ năm trăm người có phận sự bảo vệ an ninh cho Ngài. Đó là nơi tôi cùng với
Sư Phụ tôi đến viếng lần đầu tiên trong ngày hôm đó.
Sau khi đã đi qua những khu vườn sầm uất, chúng tôi bước qua một cánh cửa
rất đẹp đưa vào một khoảnh vườn bên trong. Những thứ chim đủ loại lông cánh
đủ màu sặc sỡ đang ăn dưới đất. Chúng không màng nhìn thầy trò tôi, nên
chúng tôi cũng không muốn làm quấy rầy chúng. Mặt hồ phẳng lặng chiếu sáng
như một tấm gương trong. Con đường lót đá đã được quét vôi trắng và chúng
tôi noi theo để đi tới cái cù lao xa nhất, tại đây đấng Khôn Lường đang đắm
chìm trong một cơn thiền định thâm sâu. Khi chúng tôi bước đến gần, Ngài
ngước mắt lên và mỉm cười với chúng tôi. Chúng tôi liền quì xuống, đặt cái
khăn choàng dưới chân Ngài và Ngài mời chúng tôi ngồi xuống trước mặt. Kế đó
Ngài gõ chuông để ra hiệu cho một vị Lạt Ma hầu cận dâng trà, một thủ tục
thông thường trước khi bắt đầu mọi câu chuyện. Trong khi chờ đợi, Ngài nói
chuyện với tôi về những loài thú cầm của Ngài nuôi trong vườn Ngọc Uyển và
hứa sẽ cho tôi xem sau này.
Vị quan hầu cận dâng trà xong, vừa lui ra thì đức Đạt Lai Lạt Ma nhìn tôi và
nói:
- Đạo hữu Minh Gia có nói cho biết rằng con không ưa những hào quang của
phái đoàn Trung Hoa. Người nói rằng tất cả bọn họ đều có mang đầy đủ khí
giới. Trong các cuộc thử thách bí mật hay công khai trước đây, năng khiếu
Thần Nhãn của con đã tỏ ra chính xác và không hề lầm lẫn. Vậy con nghĩ sao
về những người ấy?
Câu hỏi của Ngài làm cho tôi bối rối. Tôi không thích nói cho ai nghe trừ
phi với Sư Phụ tôi những gì tôi nhìn thấy trong hào quang của thiên hạ, và
những màu sắc ấy có ý nghĩa gì đối với tôi. Thật vậy, tôi nghĩ rằng nếu một
người không thể nhìn thấy và tự diễn đạt lấy ý nghĩa các hào quang ấy cho
riêng mình thì điều đó có nghĩa là người ấy không có cái định mệnh được biết
những gì tôi biết. Nhưng làm sao tôi dám nói điều ấy với vị Nguyên Thủ quốc
gia? Nhất là một vị Nguyên Thủ không có năng khiếu Thần Nhãn? Tôi bèn đáp:
- Vạn bạch Thái Tuế, con rất vụng về trong việc nhìn xem hào quang của người
khác, và bởi đó con không đủ tư các cách xứng đáng để bày tỏ một ý kiến nào
hết.
Tôi không tiến thêm được bao nhiêu, vì đấng Thậm Thâm lại nói tiếp:
- Con thuộc về thành phần những người bẩm sinh ra đã có những khả năng thiên
phú. Những khả năng đó đã được phát triển nhờ sự luyện tập theo các pháp môn
bí truyền. Con có bổn phận phải nói. Con đã được nuôi nấng dạy dỗ chỉ vì mục
đích đó mà thôi. Ta nghe đây.
- Vạn bạch Thái Tuế, những nhân viên trong phái đoàn Trung Hoa đều có những
ý đồ rất sảo trá quỷ quyệt. Những màu sắc trong hào quang của họ biểu lộ một
ý địng lường gạt và phản bội.
Tôi không nói nhiều nữa, nhưng đức Đạt Lai Lạt Ma có vẻ hài lòng. Ngài nói:
- Tốt lắm, con đã lập lại đúng y như những lời con đã nói với đạo hữu Minh
Gia. Ngày mai, con sẽ đứng núp phía sau tấm bình phong này và con sẽ quan
sát phái đoàn Trung Hoa khi họ đến đây. Chúng ta cần biết rõ ý đồ của họ.
Con hãy đi núp ngay bây giờ thử xem có ai nhìn thấy không?
Tôi bèn tuân lịnh đứng núp sau bình phong, các sư sãi nô bộc cũng rời những
con sư tử đá chận thêm ở phía ngoài để cho tôi được hoàn kín đáo. Người ta
thử tập dượt qua một lần cuộc viếng thăm này, những vị Lạt Ma đóng vai trò
của phái đoàn Trung Hoa. Họ cố gắng tìm ra chỗ tôi ẩn núp. Tôi nhìn thấy tư
tưởng của một người trong bọn:
- Nếu mình tìm thấy nó, mình sẽ được thăng thưởng.
Nhưng rốt cuộc y cũng chẳng được gì. Sau cùng, đấng Thậm Thâm tỏ ý hài lòng
và gọi tôi ra. Sau vài phút nói chuyện, Ngài dặn chúng tôi hãy trở lại vào
ngày hôm sau vì phái đoàn Trung Hoa sẽ tìm cách bắt buộc Ngài ký một hiệp
ước. Với ý nghĩ đó, chúng tôi từ biệt Ngài và trở về tu viện Chakpori.
Ngày hôm sau vào khoảng mười một giờ, chúng tôi đã có mặt tại vườn Ngọc
Uyển. Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp đón tôi với một nụ cười và nói rằng tôi phải
ăn uống trước đã (điều này lúc nào tôi cũng sẵn sàng!) trước khi vào núp
phía sau tấm bình phong. Theo lịnh Ngài, người ta dọn ra cho tôi một bữa ăn
thịnh soạn, với những đồ thực phẩm nhập cảng từ bên Ấn Độ, mà tôi chưa được
biết tên gọi là gì. Điều mà tôi biết, là lần đầu tiên tôi được ăn một bữa ăn
lạ miệng và hoàn toàn khác hẳn với các món ăn cũ rích là trà bơ, tsampa và
củ cải; sau khi đã ăn uống hả lòng, tôi cảm thấy hăng hái hơn để có thể
đương đầu với cái viễn cảnh phải ngồi yên bất dộng trong một thời gian. Sự
ngồi yên bất động hoàn toàn, điều kiện tất yếu của môn thiền định, không có
gì là khó khăn đối với các vị Lạt Ma. Từ thưở ấu thơ, nói đúng ra là từ năm
tôi lên bẩy, người ta đã tập cho tôi nhồi yên không cử động trong nhiều giờ.
Để thực tập, người ta đặt một cái đèn thắp bằng bơ lên đầu tôi và tôi phải
ngồi trong tư thế liên hoa cho đến khi chất bơ trong đèn đã cạn, tức là suốt
mười hai giờ. Như vậy, ngồi yên không cử động suốt ba hay bốn tiếng đồng hồ
không phải là một điều khó.
Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng ngồi trong tư thế liên hoa đối diện với tôi, trên
một chiếc ngai độ hai thước cao hơn mặt đất. Ngài ngồi yên không cử động;
tôi cũng vậy. Thình lình, những tiếng kêu và nhiều tiếng chào bằng tiếng
Trung Hoa từ đằng xa vọng đến tai chúng tôi, sau đó tôi nghe nói rằng y phục
của phái đoàn Trung Hoa có nhiều chỗ độn lên rất khả nghi, và người ta đã
phải lục soát trong mình họ để tước khí giới. Sau đó, dưới sự hướng dẫn của
quân ngự lâm, họ được đưa vào nội cung và chừng tôi nhìn thấy họ noi theo
con đường lót đá đi đến trước tư dinh. Một vị Lạt Ma cao cấp cất tiếng ngân
nga: Om! Mani padme Hum, nhưng phái đoàn Trung Hoa, thay vì phải lập lại câu
châm ngôn ấy như nghi lễ bắt buộc, đã đáp lễ bằng tiếng Trung Hoa:
- A Di Đà Phật!
Từ chỗ tôi ẩn núp, tôi nhìn thấy hào quang của họ chiếu sáng. Tôi quan sát
những màu sắc xám lợt thỉnh thoảng lại phóng ra những tia màu đỏ bầm, biểu
lộ những giòng tư tưởng oán ghét, hận thù. Hào quang của họ có những lằn và
những vệt ngang màu rất xấu xa, chớ không có những màu sắc trong sáng và
tinh khiết của những tư tưởng thanh cao. Những hào quang màu sắc đục ngầu và
xấu xí của họ biểu lộ những tâm hồn đầy dục vọng vật chất và tội lỗi. Đó
chính là những người được diễn tả rất đúng bởi câu sáo ngữ "Khẩu Phật, tâm
xà." Tôi nhìn đức Đạt Lai Lạt Ma, hào quang của Ngài biểu lộ sự buồn rầu, vì
Ngài đang nhớ lại cái thời kỳ xa xưa khi Ngài lưu vong sang sứ Trung Hoa.
Tác phong của Ngài làm cho tôi rất cảm mến; xứ Tây Tạng chưa hề có một vị
Quốc vương xứng đáng hơn Ngài. Ngài có một tính chất cương nghị, thậm chí có
khi rất nóng nảy, vì có những tia đỏ xẹt ngang qua hào quang của Ngài, nhưng
lịch sự sẽ nhắc nhở rằng Ngài là vị Đạt Lai Lạt Ma cao cả nhất mà Ngài đã
từng quên mình trọn vẹn trong công việc phụng sự xứ sở. Tôi có một lòng kính
yêu thật sự đối Ngài và trong lòng tôi Ngài chiếm được một ưu thế sau Minh
Gia Đại Đức, Sư Phụ tôi.
Cuộc hội kiến kéo dài mà không mang lại một kết quả hữu ích, vì những người
ấy đến đây không phải với tư cách là bạn mà là thù. Họ có những ý nghĩ đã
định sẵn, cùng những phương pháp để thực hiện những ý đồ của họ. Họ muốn
chiếm thêm đất đai lãnh thổ, điều khiển nền chánh trị của Tây Tạng, và trên
hết là... vàng! Vàng đã từng là mục tiêu tham vọng của họ tự muôn đời, vàng
có đến hằng bao nhiêu trăm tấn ở Tây Tạng, ở xứ này nó được coi như một loại
kim khí linh thiêng. Theo sự tín ngưỡng của dân bản xứ, đào mỏ tìm vàng tức
là làm mất đi cái khí thiêng của xứ sở, xúc phạm đến Thần Linh, nên không ai
có ý định làm việc ấy. Ở Tây Tạng có những sông rạch ở đó người ta có thể
đãi cát lấy vàng do giòng nước cuốn trôi xuống từ trên núi. Trong vùng Chang
Tang, tôi đã thấy vàng đọng lại như cát ở các bờ suối. Thứ vàng này đem nấu
tan ra, sẽ dùng làm đồ trang trí các đền thờ, vì loại kim khí linh thiêng
này tự nhiên là để dùng vào những mục đích linh thiêng. Những ngọn đèn thắp
bằng bơ cũng làm toàn bằng vàng. Nhưng có điều là chất vàng quá mềm nên sau
một thời gian các đồ dùng đều méo và mất hình thể.
Diện tích xứ Tây Tạng lớn gấp bảy lần nước Pháp. Nhiều vùng rộng lớn vẫn
chưa được thám hiểm, tôi được biết rằng ở đó người ta tìm ra rất nhiều vàng,
bạc và uranium. Người Tây Tạng không bao giờ để cho người Tây Phương tìm đến
các mỏ khoáng chất trong xứ họ, mặc dầu có những vận động ráo riết của những
người này, vì họ có một câu châm ngôn cổ nói rằng: "Ở đâu có người Tây
Phương, là ở đó có chiến tranh." Trong quyển sách này, khi tôi nói đến những
cái kèn vàng, đĩa vàng, và "thi hài bọc vàng," xin đọc giả đừng nên quên
rằng ở Tây Tạng, vàng không phải là một loại kim khí hiếm có mà là loại kim
khí linh thiêng. Xứ Tây Tạng có thể là một kho tài nguyên phong phú vô tận
mở rộng cửa cho toàn thể thế giới nếu nhân loại chịu hợp nhất và làm việc
trong nền hòa bình, thay vì tự tiêu diệt lấy nhau trong cái ảo vọng tranh
giành thế lực.
Một buổi sáng, tôi đang ngồi chép một bản kinh bút tự để đưa cho thợ khắc
chữ, thì Minh Gia Đại Đức đến tìm tôi và nói:
- Lâm Bá, con hãy gác lại việc ấy. Đấng Khôn Lường có cho gọi chúng ta đến
vườn Ngọc Uyển để quan sát cái hào quang của một người ngoại quốc đến từ thế
giới Phương Tây. Con hãy đi mau, vì Ngài muốn nói chuyện riêng với chúng ta
trước khi tiếp khách. Không cần đem theo khăn choàng và không cần nghi lễ
chi cả. Con chỉ cần sửa soạn đi gấp, thế thôi!
Tôi nhìn Sư Phụ một giây và đáp:
- Bạch Sư Phụ, để con vào thay áo, rồi con sẽ sẵn sàng.
Tôi không mất nhiều thời giờ để sửa soạn y phục chỉnh tề. Chúng tôi bước ra
khỏi tu viện và trong giây lát chúng tôi đã có mặt tại vườn Ngọc Uyển. Nhưng
quân canh gác vừa xua tay định bảo chúng tôi đi chỗ khác chơi, nhưng khi họ
nhìn ra Minh Gia Đại Đức, họ liền thay đổi thái độ ngay tức khắc và mau mắn
dẫn đường đưa chúng tôi vào nội cung, tại đây đức Đạt Lai Lạt Ma đã ngồi sẵn
chờ đợi chúng tôi. Không có khăn choàng để làm lễ ra mắt, tôi cảm thấy tôi
có vẻ vụng về lúng túng vì tôi không biết dùng hai bàn tay tôi làm gì? Đấng
Thậm Thâm vừa mỉm cười nhìn chúng tôi và nói:
- Minh Gia hãy an tọa, và con nữa, Lâm Bá. Quý vị đã không mất nhiều thời
giờ.
Chúng tôi ngồi xuống và đợi Ngài mở lời trước. Ngài ngồi tĩnh tọa và định
tâm trong một lúc, dường như để sắp đặt những tư tưởng của Ngài cho có trật
tự. Kế đó, Ngài nói:
- Trước đây đã lâu, quân mọi lông đỏ (người Anh) đã xâm chiếm xứ sở chúng
ta. Khi đó ta đi qua Mông Cổ, giai đoạn đầu của một chuyến viễn du dài hạn.
Năm Canh Tuất (1910), quân Trung Hoa lại xâm lăng xứ chúng ta, cuộc xâm lăng
này là hậu quả trực tiếp của cuộc tấn công của quân Anh. Lần này ta lại lên
đường qua Ấn Độ và chính trong dịp đó ta đã gặp vị sứ thần Anh Quốc mà ta sẽ
tiếp kiến ngày hôm nay. Ta nói những điều đó là để cho con, Lâm Bá, vì Minh
Gia đã tháp tùng theo ta trong những dịp xuất ngoại đó. Người Anh đã hứa hẹn
với ta nhiều điều mà rốt cuộc họ không giữ lời hứa. Hôm nay, ta muốn biết
xem người sứ giả này có thành thật hay không. Lâm Bá, con sẽ không hiểu
những lời nói của ông ta; như vậy, những lời ấy sẽ không ảnh hưởng gì đến
con. Con hãy đứng núp sau tấm bình phong này, con có thể quan sát mọi sự mà
không ai biết. Con hãy nhìn xem hào quang của ông ta và đưa ra nhận xét của
con như Sư Phụ con đã dạy. Bây giờ, Minh Gia đạo hữu hãy chỉ chỗ trú ẩn cho
Lâm Bá, vì y đã quen thuộc với sự chỉ dẫn của đạo hữu hơn là của ta, và ta
tin chắc rằng y coi đạo hữu còn cao hơn vị Đạt Lai Lạt Ma nữa kìa!
Núp phía sau bình phong, tôi không ngớt nhìn chung quanh, quan sát các loài
chim và các nhánh cây đẩy đưa theo chiều gió. Thỉnh thoảng tôi lén nhai vài
miếng tsampa mà tôi đã đem theo. Thình lình có tiếng động mạnh của cánh cửa
vườn trong: Những vị Lạt Ma mặc áo vàng trong nhóm các quan hầu cận của đức
Đạt Lai Lạt Ma bước vào cùng với một người da trắng ăn mặc một cách thật lố
bịch dị kỳ. Tôi phải khó khăn lắm mới giữ được sự yên tĩnh, không thôi tôi
sẽ bật cười đến chết mất thôi. Người ấy tác cao lớn và hơi gầy. Ông ta có
mái tóc trắng, cặp lông mày thưa, đôi mắt rất sâu, và một đôi môi khép chặt,
có vẻ đanh thép.
Nhưng còn bộ y phục của người này! Nó được cắt trong một loại hàng màu xanh
đậm, phía trước có một hàng nút bằng đồng bóng loáng. Bộ y phục này chắc hẳn
là công trình của một thợ may rất dở, vì cái cổ áo quá lớn đến nỗi người ta
phải lật nó ra ngoài, ngoài ra lại còn vài miếng vải vuông vá lên hai bên
hông. Tôi tự hỏi có phải chăng người Tây Phương cũng ăn mặc vá từng miếng
như áo cà sa của các sư sãi bên phương Đông theo gương đức Phật ngày xưa?
Xin nói thêm rằng hồi đó, tôi chưa biết gì về cái cổ áo lật (rờ ve) và cái
túi áo tây!
Ở Tây Tạng, những người nho nhã không phải là dân lao động đều mặc áo rộng,
tay rất dài che lấp cả hai bàn tay. Trái lại, tay áo của người sứ giả này
rất ngắn và chỉ dài đến cườm tay thôi. Tôi thầm nghĩ:
- Tuy vậy, chắc người này không phải là một bác thợ cầy vì hai bàn tay của
ông ta có vẻ rất mềm mại. Có lẽ là ông ta không biết cách ăn mặc, thế
thôi...
Cái áo của ông ta chỉ dài đến nửa thân mình. Tôi thầm nghĩ chắc là ông ta
nghèo lắm. Quần của ông ta mặc quá chật và rõ ràng là quá dài, vì gấu quần
lại vén ngược lên. Tôi tự nghĩ:
- "Trong bộ y phục này, chắc hẳn là ông ta cảm thấy lúng túng trước mặt đấng
Thậm Thâm." Tôi lại tự hỏi rằng không biết có người nào cũng vừa tầm thước
với ông, có thể cho ông ta mượn đỡ một bộ y phục thích đáng.
Khi đó, tôi nhìn hai bàn chân ông ấy. Thật là một điều rất lạ lùng: Hai bàn
chân ông ta bị nhốt trong một vật rất dị kỳ màu đen và bóng loáng dường như
là được bao phủ bằng một lớp nước đá! Những vật này thật là khác hẳn với
những đôi ủng bằng nỉ của người Tây Tạng chúng tôi thường dùng. Tôi chưa hề
thấy bao giờ những vật dị kỳ như thế!
Sau khi, tôi ghi nhận những màu sắc trên hào quang của ông ta, cùng với sự
kết luận của tôi. Vị sứ giả đôi khi nói chuyện bằng tiếng Tây Tạng, với một
giọng khá đúng đối với một người ngoại quốc, rồi lại thốt ra một tràng âm
thanh lạ lùng mà tôi chưa hề nghe bao giờ. Về sau, người ta mới nói cho tôi
biết rằng đó là tiếng Anh.
Khi ông ta thò tay vào cái túi vá ở bên hông và lấy ra một mảnh vải trắng
nhỏ, tôi lấy làm ngạc nhiên. Dưới đôi mắt kinh ngạc của tôi, ông ta đưa mảnh
vải trắng ấy lên trước mũi và miệng phát ra một tiếng động giống như tiếng
kèn. Tôi thầm nghĩ:
- "Chắc hẳn đó là một cách chào đấng Khôn Lường!" (Người Tây Tạng không có
thói quen dùng khăn tay.) Ông ta "chào" xong, liền cẩn thận đút mảnh vải
trắng vào chỗ cũ. Kế đó, ông ta đưa tay vào bâu trong áo rồi lấy ra nhiều tờ
giấy thuộc một loại mà tôi chưa hề thấy bao giờ. Thứ giấy bên Tây Tạng hơi
dầy, nhám và màu vàng, còn loại giấy này trắng mỏng và láng. Tôi tự hỏi:
- "Làm sao người ta có thể viết trên một tờ giấy như vậy? Không có gì trên
đó để giữ lại cây viết chì, vì giấy trơn quá!"
Khi đó, người khách lấy ra một cây viết và viết lên trên giấy những hàng chữ
nguệch ngoạc không thể tưởng tượng. Tôi cho rằng ông ta không biết viết, có
lẽ ông ta chỉ làm bộ cho có dáng vậy thôi!
Ông ta chắc chắn là có tật nên bắt buộc phải ngồi trên một tấm gỗ đặt trên
bốn chân, và để hai chân thòng xuống đất. Xương sống ông ta chắc bị tật nên
ông ta phải dựa lưng vào hai mảnh gỗ đóng chặt vào phía sau chỗ ngồi. Tôi
cảm thấy động lòng thương hại ông ta: Không những quần áo ông ta chật hẹp và
ngắn cũn cỡn trông thật buồn cười, ông ta không biết viết và thỉnh thoảng
lại làm ra vẻ lịch sự bằng cách thổi một tiếng vào một thứ kèn bằng vải, mà
ông ta lại còn không thể ngồi vững vàng như mọi người, mà phải dựa lưng cho
đỡ mỏi và để hai chân thòng xuống lủng lẳng trong khoảng không! Ông cử động
luôn luôn, ngồi chéo chân rồi lại bỏ chân xuống. Thình lình, tôi lấy làm vô
cùng kinh ngạc mà thấy ông ta đưa chân trái lên, bàn chân chỉa thẳng về phía
đức Đạt Lai Lạt Ma, một cử chỉ vô cùng hỗn láo và vô lễ đối với người Tây
Tạng. Nhưng có lẽ ông ta chợt nghĩ ra điều đó, vì ông ta lại đổi qua tư thế
khác. Đấng Thậm Thâm dành cho ông ta một sự tiếp đãi trọng hậu bằng cách
cũng ngồi trên một cái ghế gỗ, và cũng để hai chân thòng xuống như ông ta.
Vị sứ giả này có một cái tên rất lạ Charles A. Bell, có nghĩa là "Cái
chuông."
Những màu sắc trên hào quang của ông ta biểu lộ một tìng trạng sức khỏe suy
kém: Có lẽ khí hậu của sứ này không hạp với thể chất của ông ta. Ông ta
dường như thật tình muốn giúp đỡ, phụng sự, nhưng theo những màu sắc hào
quang cho thấy thì ông ta hiển nhiên là không muốn làm một việc mạo hiểm có
thể liên lụy đến thanh danh mình, nếu ông ta làm mất lòng chính phủ Anh. Ông
ta muốn áp dụng một chánh sách nào đó, nhưng vì chính phủ Anh không chịu
nghe theo, nên ông ta chỉ còn cách là hy vọng rằng tương lai sẽ chứng minh
cho sự thiện chí của mình.
Chúng tôi đã có những tài liệu chính xác về vị sứ thần Charles Bell. Chúng
tôi đã thu nhập được những dữ kiện cần thiết, ngày sinh tháng đẻ, cùng những
điểm quan trọng trong đời ông ta, nói tóm lại là tất cả những gì có thể giúp
cho chúng tôi tiên đoán được tương lai của ông ta. Các nhà Chiêm Tinh đã
phát hiện rằng trong một tiền kiếp, ông ta đã sống ở Tây Tạng và trong kiếp
đó ông ta đã mong ước được đầu thai qua bên Tây Phương với hy vọng là sẽ góp
phần vào công việc tạo nên nhịp cầu thông cảm giữa Đông Phương và Tây
Phương. Gần đây, có người cho tôi hay rằng chính ông ta nói đến vấn đề ấy
trong một của những tác phẩm của mình. Chúng tôi tin chắc rằng nếu ông ta có
thể ảnh hưởng đến chánh phủ Anh như ý ông ta muốn, thì sau này đã không xảy
ra cuộc xâm lăng của quân Trung Hoa. Tuy nhiên, cuộc xâm lăng này đã được
tiên tri từ trước, và những lời tiên tri bao giờ cũng được thực hiện.
Chánh phủ Anh có vẻ rất ngờ vực: Họ sợ rằng xứ Tây Tạng sẽ liên minh với Nga
Xô, điều này thật không có lợi cho họ chút nào. Anh Quốc từ chối không chịu
ký hiệp ước với Tây Tạng và đồng thời cũng không muốn cho xứ này thiết lập
những bang giao thân hữu với những nước khác. Xứ Sikkim, xứ Bhutan, và các
nước khác đều có thể ký hiệp ước với Anh Quốc, nhưng Tây Tạng thì không. Bởi
đó, người Anh bắt đầu tháo mồ hôi hột lo thảo kế hoạch để xâm chiếm lãnh thổ
xứ Tây Tạng. Sứ giả Charles Bell có mặt tại chỗ vẫn biết rằng chánh phủ Tây
Tạng không hề muốn liên kết với bất cứ một quốc gia nào. Họ chỉ muốn sống tự
do, độc lập, và tránh mọi tiếp xúc với người ngoại quốc, vì những người này
trong quá khứ chỉ có đem lại cho họ những tai họa tàn phá và đau khổ.
Đấng Khôn Lường tỏ vẻ rất hài lòng khi tôi trình bày những điều nhận xét của
tôi, sau khi sứ giả Bell đã lui gót, nhưng Ngài lại nghĩ đến việc bắt tôi
phải làm việc nhiều hơn. Ngài nói:
- À, phải đấy, chúng ta cần phát triển khả năng của con nhiều hơn nữa. Khả
năng đó sẽ giúp ích cho con rất nhiều khi con sống ở các xứ phương xa. Chúng
ta sẽ để cho con thụ huấn bằng một phương pháp thôi miên ráo riết hơn, để
cho con được thâu nhập một số kiến thức tối đa.
Ngài gõ chuông gọi quan hầu cận và nói:
- Ta muốn gặp Minh Gia Đại Đức. Hãy mời người vào ngay lập tức.
Vài phút sau, Sư Phụ tôi đã khoan thai bước đến. Tôi tự hỏi ai là người có
thể hối thúc Sư Phụ tôi đi mau! Nhưng vì đức Đạt Lai Lạt Ma coi Sư Phụ tôi
như một bạn hữu, nên Ngài không muốn hối thúc người.
Sư Phụ ngồi gần bên tôi, trước mặt đấng Thậm Thâm. Một người hầu cận mau mắn
dâng trà và vài món thực phẩm của Ấn Độ. Khi chúng tôi đã an tọa đức Đạt Lai
Lạt Ma cất tiếng nói:
- Hỡi Minh Gia đạo huynh, đạo huynh đã không lầm, vì Lâm Bá rất giỏi. Y có
thể tiến bộ hơn nữa, và nhất định phải tiến. Vậy Đạo Huynh hãy lấy mọi quyết
định cần thiết để cho y được một sự thụ huấn nhanh chóng và toàn hảo đến mức
tối đa. Đạo Huynh hãy sử dụng mọi tất cả mọi phương tiện có sẵn, vì, như
chúng ta thường được cho biết trước, những ngày đen tối và tai họa dồn dập
sẽ đến với sứ sở chúng ta, nên chúng ta cần có một người tài giỏi có thể
biên soạn những bộ kinh sách Huyền Môn cổ truyền.
Như thế, hằng ngày tôi càng bận rộn hơn với nhiều công việc. Từ đó, tôi
thường được gọi gấp vào điện để "nhận xét" những hào quang các vị thượng
khách của đức Đạt Lai Lạt Ma.
Tôi đã trở nên một nhân vật quen thuộc của điện Potala và vườn Ngọc Uyển. Ở
điện Potala, tôi có thể sử dụng những ống viễn vọng kính mà tôi rất thích.
Một trong những ống kính này, một loại kính lớn để xem thiên văn dựng trên
một cái giá có ba chân, làm tôi thích thú nhất và tôi đã từng trải qua nhiều
giờ để quan sát mặt trăng và các bầu tinh tú cho đến khuya.
Cùng với Minh Gia Đại Đức, tôi thường đến Lhassa để nhìn xem nhân vật của
thủ đô. Với những năng khiếu thần thông siêu đẳng và những kinh nghiệm rộng
rãi của Sư Phụ về người và vật, và Người có thể kiểm soát được những nhận
xét của tôi.
|