Một Cuộc Điểm Đạm Huyền Môn
Sau khi tôi đã dự kiến độ nửa chục cuộc xác ướp trong các tu viện khác nhau,
ngày nọ vị sử trưởng tu viện Chakpori cho mời tôi đến và nói:
- Này đạo hữu Lâm Bá, theo lịch dạy của đấng Thậm Thâm, đạo hữu sẽ được điểm
đạo vào hàng Sư Trưởng. Thể theo ý muốn của đạo hữu, đạo hữu sẽ có thể tiếp
tục mang danh hiệu Lạt Ma như Minh Gia Đại Đức vậy. Tôi chỉ biết truyền đạt
cho đạo hữu bức thông điệp của đấng Khôn Lường.
Như vậy, với tư cách một vị Hóa Thân được mọi người nhìn nhận, tôi đã đảm
nhiệm trở lại cái danh vị cũ của tôi hồi tiền kiếp, cách đây độ chừng sáu
thế kỷ về trước. Bánh xe luân hồi đã quay giáp trọn một vòng.
Ít lâu sau đó, một vị Lạt Ma cao niên đến thăm tôi tại phòng riêng và cho
tôi biết rằng tôi phải trải qua một cuộc lễ "chết giả", vị Lạt Ma ấy nói:
- Con hỡi, khi mà con chưa bước qua bên kia cửa tử và trở về dương thế, thì
con sẽ không bao giờ biết rằng vốn không có sự chết. Sự học về các cõi giới
vô hình đã đưa con đi xa. Cuộc lễ này sẽ còn đưa con đi xa hơn nữa; con sẽ
vượt qua cõi sống và cõi chết và con sẽ đi ngược dòng thời gian để truy
nguyên đến tận cái dĩ vãng vô cùng màu nhiệm của xứ sở chúng ta.
Sự chuẩn bị cho cuộc lễ này thật lâu dài và gian lao. Trong ba tháng trường,
tôi phải tuân theo một phép ăn uống rất khắc khổ. Bất hạnh thay, tôi lại còn
phải dùng thêm những món cỏ thuốc mùi rất nồng nặc ngoài những bữa ăn thường
ngày. Người ta khuyên tôi chỉ nên nghĩ đến những gì "trong sạch và thánh
thiện" mà thôi (làm như là người ta có thể nghĩ khác hơn trong một tu viện!)
thậm chí các món tsampa và trà cũng bị hạn chế. Nói tóm lại, tôi phải trải
qua một nếp sống khắc khổ tối đa, chịu một kỷ luật nghiêm khắc và trải qua
những giờ công phu thiền định lâu dài.
Sau cùng, ba tháng đã trôi qua, các nhà chiêm tinh tuyên bố rằng thời gian
đã điểm, và những ảnh hưởng tinh tú đều thuận lợi. Trong hai mươi bốn giờ
đồng hồ, tôi nhịn đói cho đến khi tôi nhận thấy bụng tôi thật trống rỗng.
Sau đó, người ta đưa tôi xuống những nấc thang bí mật ở dưới hầm điện
Potala. Chúng tôi đi xuống rất lâu; những người đồng hành với tôi đều cầm
đuốc soi đường, còn tôi thì không. Chúng tôi đi qua những dãy hành lang mà
tôi đã biết trong cuộc thám hiểm trước đây. Sau cùng, chúng tôi đến chỗ đầu
cuối một đường hầm có tảng đá khép chặt. Một cánh cửa bí mật bằng đá lớn
xoay vòng trước mặt tôi và đưa chúng tôi đến một đường hầm khác rất hẹp và
tối tăm, nơi đó xông lên một mùi mốc meo lẫn lộn với mùi gia vị và mùi hương
trầm. Đi xa hơn độ vài thước, chúng tôi bị ngăn chặn bởi một cánh cửa thếp
vàng rất dày và chắc; cánh cửa này mở ra từ từ với những tiếng khua rít vang
vội ra tận đằng xa. Những ngọn đuốc được dập tắt và thay thế bằng những ngọn
đèn bơ. Chúng tôi bước vào một ngôi đền ở dưới hầm, được đục khoét trong núi
đá từ nhiều thế kỷ trước bởi những cuộc địa chấn do hỏa diệm sơn gây ra.
Ngày xưa những dòng phún thạch từ trong lòng đất đã trải qua những dãy hành
lang này trước khi đến miệng núi lửa. Tôi thầm nghĩ: "Bây giờ thì là những
người yếu hèn tội lỗi đi ngang qua con đường này, và họ tự nghĩ rằng mình là
thần thánh. Nhưng trong giờ phút này, tôi cần phải tập trung tư tưởng đến
cuộc lễ, nhiều người trong chúng tôi đã đến ngôi đền Minh Triết Huyền Bí".
Ba vị Sư Trưởng dẫn đường cho tôi; kỳ lạ những người đi theo hộ tống đã mất
dạng trong bóng tối, giống như ảo ảnh của một giấc mơ. Chỉ còn một mình tôi
ở lại với ba vị hiền giả lão thành, thân hình già nua với năm tàn tháng lụn
và bình tĩnh đợi ngày khuất núi để được gọi lên cõi trời, ba ông lão này có
lẽ là ba vị sư cao cả nhất trong thế giới, sẽ đặt tôi dưới một cơn thử thách
cuối cùng trong cuộc lễ điểm đạo. Mỗi vị đều cầm nơi tay mặt một ngọn đèn
bơ, và tay trái cầm một cây nhang to lớn cháy nghi ngút. Tiết trời rất lạnh
lẽo, một cơn lạnh lẽo rất lạ lùng, không hề có trên mặt đất. Cơn im lặng rất
thâm trầm, và những tiếng động rất hiếm đến từ bên ngoài càng làm cho sự im
lặng ấy trở nên lạ lùng hơn nữa. Những đôi giày ủng lót bằng nỉ của chúng
tôi không thấy một tiếng động nào; chúng tôi lướt đi qua những cái bóng. Tôi
nghe tiếng suỵt soạt êm dịu từ những vạt áo tràng bằng nhung màu vàng nghệ
của các Sư Trưởng. Tôi lấy làm vô cùng kinh ngạc mà cảm thấy trên da thịt
một luồng điện chạy lăn tăn như kiến bò, và có hiện tượng phóng điện toát ra
từ cái thân hình tôi. Hai bàn tay tôi chiếu sáng dường như phóng hào quang.
Tôi nhận thấy các vị Sư Trưởng cũng có hai bàn tay chiếu sáng giống y như
tôi. Khí trời khô ráo và sự cọ sát bởi những áo tràng của chúng tôi đã gây
nên một sự tích tụ của tĩnh điện. Một trong các vị Sư Trưởng bèn đưa cho tôi
một chiếc đũa vàng và nói nhỏ thì thầm:
- Con hãy cầm chiếc đũa vàng này nơi bàn tay trái và vừa chống lên vách
tường vừa đi. Như vậy, những cảm giác khó chịu sẽ biến mất.
Tôi làm y theo lời. Sau một phát phóng điện mãnh liệt nó làm cho tôi giật
mình nhảy nhỏm thì mọi việc đều êm đẹp.
Những ngọn đèn bơ lần lượt được thắp sáng bởi những bàn tay vô hình. Khi tôi
nhìn rõ hơn dưới ngọn đèn bơ loe lét, tôi thấy những pho tượng khổng lồ mạ
vàng, trong đó có vài pho tượng chôn ngập đến nửa thân mình dưới một đống
ngọc quý và châu báu. Một tượng Phật xuất hiện từ trong bóng tối; tượng ấy
to lớn đến nỗi ánh sáng không vượt lên khỏi dây lưng. Những hình tượng khác
cũng ẩn hiện chập chờn trong bóng tối; đó là các vị thần, biểu tượng của
những dục vọng và thử thách mà con người phải vượt qua trước khi thực hiện
Chân Ngã.
Chúng tôi đến gần một vách tường, trên đó có vẽ hình một Bánh Xe Luân Hồi
Sinh Tử đường kính dài năm thước; dưới ánh sáng lập lòe nó dường như xoay
tít đến nỗi làm tôi cảm thấy chóng mặt. Chúng tôi vẫn tiến bước; tôi có cảm
giác là sắp bị ngăn chặn bởi một vách đá. Nhưng vị Sư Trưởng đi trước tôi đã
biến mất dạng sau khi đi lọt qua một cánh cửa bí mật ẩn dấu rất khéo léo
không ai có thể biết được. Cánh cửa này đưa vào một đường hầm đi xuống dốc,
đường này rất hẹp và quanh co, tại đây ánh sáng mập mờ của những ngọn đèn bơ
làm cho bóng tối càng thêm âm u huyền bí. Chúng tôi đi với những bước đi
ngập ngừng do dự, thỉnh thoảng lại xẩy chân và trợt ngã. Bầu không khí thật
nặng nề khó thở dường như toàn khối Địa Cầu đè nặng lên vai chúng tôi. Tôi
có cảm giác như đi lọt vào tận trong ruột của trái đất. Cuốicùng, sau một
khúc quanh, một động đá mở rộng trước mặt chúng tôi, một động đá chiếu sáng
ngời những ánh vàng; có những mạch vàng xen kẽ với những lớp đá tảng trên
vách. Trên vòm đá cao vút trên đỉnh đầu chúng tôi, những mạch vàng này phản
ảnh ánh sáng lập lòe của những ngọn đèn bơ, chiếu lóng lánh như ánh sao
chiếu trên nền trời trong một đêm không trăng.
Ở chính giữa động đá, có một ngôi nhà màu đen và sáng ngời, dường như làm
bằng gỗ mun. Trên tường có những hình biểu tượng và sơ đồ lạ lùng giống như
những hình vẽ mà tôi đã thấy trên những vách đá dưới hầm khi tôi thám hiểm
cái hồ nước dưới lòng đất trước đây. Chúng tôi bước vào nhà do một cửa lớn
và cao. Bên trong tôi thấy ba cỗ quan tài lớn bằng đá đen có chạm hình và
khắc những dòng chữ lạ kỳ. Ba cỗ quan tài đều không có đậy nắp. Nhìn vào bên
trong tôi bèn muốn đứt hơi thở và thình lình tôi cảm thấy rất yếu. Vị Tiên
Chỉ, cao niên nhất trong ba vị Sư Trưởng mới nói với tôi:
- Con hỡi, con hãy nhìn xem. Các vị này đã từng sống như những đấng Thần
Minh ở xứ ta và một thời kỳ mà xứ này còn là một đồng bằng, chưa có núi non
gì cả. Các vị ấy đã từng dong dũi trên đất liền, trong khi những vùng biển
cả còn đập sóng ở ngoài khơi của xứ Tây Tạng, và khi những bầu tinh tú khác
còn chiếu sáng trên nền trời của chúng ta. Con hãy nhìn xem cho kỹ, vì chỉ
có những bậc đạo đồ (inities: Những vị chân tu đã được điểm đạo trong giới
huyền môn) mới được thấy mà thôi.
Tôi làm y theo lời: Tôi vừa thích thú vừa kinh ngạc. Ba thể xác to lớn, toàn
thân đều mạ vàng nằm dài trong ba cỗ quan tài trước mắt tôi. Hai người nam
và một người nữ. Mỗi nét trên thân hình của họ đều được giữ nguyên vẹn dưới
lớp vàng bên ngoài. Nhưng họ là những người khổng lồ! Người nữ đo trên ba
thước tây và người lớn nhất trong hai người nam đo không dưới năm thước. Đầu
của họ rất lớn, hơi nhọn trên đỉnh đầu, quai hàm hẹp, miệng hơi nhỏ và cặp
môi mỏng. Sống mũi dài và thâm, đôi mắt ngay thẳng và thụt vô sâu. Gương mặt
họ tươi như hồi còn sống, họ có vẻ như nằm ngủ. Chúng tôi đi nhón gót vì sợ
làm cho họ thức giấc. Tôi nhìn xem cái nắp của một cỗ quan tài: Trên đó có
khắc một bản đồ thiên tượng với những tinh tú rất lạ lùng. Nhờ có học về
khoa chiêm tinh, tôi đã từng quen thuộc với vị trí các bầu tinh tú, nhưng
bản đồ thiên tượng này là hoàn toàn khác hẳn.
Vị Tiên Chỉ quay lại phía chúng tôi và nói:
- Con sẽ trở nên một bậc đạo đồ. Con sẽ nhìn thấy dĩ vãng và con cũng sẽ
biết cả tương lai. Cuộc thử thách sẽ rất cam go gian khổ. Nhiều người không
còn sống sót sau cơn thử thách và nhiều người đã thất bại nhưng không ai rời
khỏi chốn này một cách an toàn, trừ phi đã vượt qua cơn thử thách. Con đã
chuẩn bị sẵn sàng chưa và con có bằng lòng chịu đặt dưới cuộc thử thách ấy
không?
Tôi đáp rằng tôi sẵn sàng và ba vị Sư Trưởng liền đưa tôi đến một phiến đá
đặt ở giữa hai cỗ quan tài. Theo chỉ thị của hai vị Sư Trưởng, tôi ngồi lên
phiến đá trong tư thế liên hoa hai chân xếp bằng, lòng bàn tay lật ngửa. Một
cây nhang to lớn cháy nghi ngút được cắm lên mỗi quan tài ở hai bên và trên
phiến đá chỗ tôi ngồi. Các vị Sư Trưởng lần lượt rút lui và biến mất dạng,
mỗi vị cầm một ngọn đèn bơ soi đường. Họ đóng cánh cửa lớn: Chỉ còn lại một
mình tôi với những cái xác ướp của những vị tiền bối của một thế hệ đã qua.
Thời gian trôi đi, tôi định tâm ngồi thiền. Ngọn đèn của tôi đem theo đã cạn
bơ và vụt tắt. Trong một lúc, tôi nhìn thấy cái bấc đèn còn ngúm đóm lửa
tàn, và ngửi thấy một mùi bốc cháy, rồi kế đó mọi sự đều biến mất và không
còn gì nữa.
Tôi nằm dài trên phiến đá và bắt đầu hô hấp theo một phép khí công đặc biệt
mà tôi đã thụ huấn trong nhiều năm. Bầu không khí im lặng và bóng tối dầy
đặc chung quanh đè nặng lên tôi. Quả thật đó là cái im lặng của nhà mồ.
Thình lình thân hình tôi cứng đơ và trở nên bất động như một xác chết. Tay
chân tôi đã tê liệt và lạnh dần. Tôi có cảm giác như đang bước vào cõi chết,
chết trong cái ngôi mộ cổ này, ở một bề sâu trên một trăm thước dưới lòng
đất. Một cơn rung chuyển mạnh diễn ra bên trong thân thể tôi làm cho toàn
thân tôi rũ liệt.
Một ánh sáng màu xanh lợt từ từ xuất hiện trong ngôi mộ như một ánh chớp mới
mọc trên một truông núi. Tôi cảm thấy tôi hơi cử động, thân tôi nhẹ bổng bay
lên rồi rơi xuống; trong một lúc tôi tưởng rằng tôi đang ngồi trên một con
diều gỗ lượn trên không gian. Sự thật hiện ra trong trí tôi: Tôi đang bay
phất phơ trên cái thể xác bằng xương thịt của tôi. Tuy không có gió, nhưng
tôi bị lôi cuốn bởi một đám khói. Ở phía trên đầu, tôi thấy một vừng ánh
sáng giống như một cái hoa màu vàng. Từ chính giữa thân mình tôi, tỏa ra một
sợi dây màu vàng bạc, chiếu lóng lánh và tràn đầy nhựa sống.
Tôi nhìn xem cái thể xác vô tri bất động của tôi, nó chỉ là một cái xác chết
như mọi tử thi khác... lần lần, tôi phân biệt những điển dị đồng nhỏ giữa
cái xác của tôi với cái xác của những người khổng lồ nằm gần bên đó là một
điều rất lý thú. Tôi nghĩ đến những sự tự hào lố bịch của nhân loại đương
thời: Làm sau những người chủ nghĩa duy vật có thể giải thích sự hiện diện
của những cái xác ướp khổng lồ này? Tôi đang còn suy nghĩ... thì thình lình
tôi trở nên ý thức được một cái gì nó làm đảo lộn dòng tư tuởng của tôi.
Dường như lúc ấy tôi không còn cô độc một mình. Những mẫu chuyện dụng vặt
vọng đến tai tôi, những tư tưởng đứt đoạn không thốt ra lời. Những hình ảnh
tân loạn xuất hiện chập chờn xuyên qua tầm nhãn quan siêu linh của tôi. Tôi
có cảm giác rằng từ xa xa ngân lên một tiếng chuông lớn với một giọng trầm.
Tiếng chuông ấy đến gần rất mau cho đến khi nó dường như nổ ra trong đầu
tôi: Những giọt ánh sáng muôn màu nhỏ li ti và những tia chớp với những màu
sắc lạ lùng chưa từng thấy hiện ra trước mắt tôi. Thể vía của tôi phất phơ
và đưa đẩy như một chiếc lá rụng bị cuốn đi trong giông bão. Tâm thức tôi bị
dày vò, cấu xé một cách đau đớn phủ phàng bởi một con trốt xoay tít với muôn
nghìn đám lửa. Tôi cảm thấy bị bỏ rơi, cô đơn độc chiếc, như một mảnh bèo
trôi dạt giữa một vũ trụ bấp bênh vô định. Một đám sương mù đen kịt bao phủ
lấy tôi và đem đến cho tôi một niềm yên tĩnh lạ lùng, nó không phải là của
trần gian.
Những bóng tối dày đặt bao phủ lấy tôi đã dần dần tiêu tan. Tôi nghe tiếng
gầm thét của biển cả và tiếng rít lên của những viên đá sạn bị sóng nhồi
trên bãi cát. Tôi thở một bầu không khí đầy hơi muối và tôi ngửi thấy mùi
rong biển. Cảnh vật rất quen thuộc đối với tôi: Tôi nằm dài một cách uể oải
trên bãi cát được sưởi nóng bởi ánh sáng mặt trời, và ngắm nhìn những tàn
cây thốt nốt. Nhưng có một phần trong người tôi đã phản đối: Tôi chưa hề
nhìn thấy biển cả bao giờ, và không biết có loại cây thốt nốt! Một chàng
trai dài những giọng nói và tiếng cười vang vọng ra từ một lùm cây. Những
giọng nói càng đến gần thì tôi xuất hiện một đám người da sậm như đồng cỏ và
nô đùa vui vẻ. Những người khổng lồ! Tất cả đều cùng lứa như nhau! Tôi nhìn
lại thân mình: Tôi cũng vậy, tôi cũng là một người khổng lồ. Những ấn tượng
tiếp diễn theo nhau trong trí tôi: Ngày xưa, hàng bao nhiêu nghìn muôn năm
trở về trước, quả địa cầu ở gần mặt trời hơn bây giờ, những sự luân chuyển
của nó lại đi theo một hướng ngược chiều. Ngày lại ngắn hơn và nóng hơn bây
giờ. Những nền văn minh vĩ đại đã được xây dựng nên và nhân loại thời ấy
thông thái hơn người đời nay. Từ chốn không gian bên ngoài bỗng nhiên trở
thành một bầu hành tinh di động xẹt ra và chạm cào trái đất, làm cho trái
đất bị dội ngược lại, bật ra khỏi vĩ đạo của nó và xoay ngược chiều thành
những cơn giông bão làm chấn động biển cả và nước biển trào lên các lục địa,
nước biển tràn ngập khắp nơi, quả địa cầu lại rung chuyển bởi những cơn động
đất dữ dội. Nhiều vùng lục địa bị sụp lở và chìm xuống nước, những vùng khác
lại trồi lên mặt biển. Xứ Tây Tạng, được đội lên trên bốn ngàn thước cao hơn
mặt biển, không còn là một xứ nhiệt đới có bờ biển và là một nơi nghĩ mát có
thời tiết ôn hòa dễ chịu nữa. Những dãy núi cao vút, những quả diệm sơn phun
lửa và phun thạch bao vây chung quanh, chặt chịa như vách thành. Trên vùng
thượng du, đất đai bị nứt nẻ ra thành những vực thẳm, tại đó loài cầm thú và
thảo mộc của những thời đại đã qua vẫn tiếp tục sinh trưởng. Nhưng có rất
nhiều điều mà tôi không tiện nói ra, và một phần cuộc lễ điểm đạo của tôi
thật quá thiêng liêng và có tính cách quá riêng tư để có thể công bố trong
một quyển sách dành cho đại chúng.
Sau một thời gian, những linh ảnh đã lu mờ dần và biến mất. Lần lần tôi đã
mất cả ý thức về cõi siêu linh và cả ý thức về cõi phàm trần. Sau đó, tôi có
cái cảm giác khó chịu là bị lạnh lẽo kinh khủng vì nằm dài quá lâu trên một
phiến đá trong bầu không khí lạnh buốt của ngôi mộ cỗ. Những tư tưởng lạ từ
bên ngoài đến "thăm dò" khối óc của tôi như những ngón tay sờ mó.
- A, y đã trở lại với chúng ta. Chúng ta đã đến kịp giờ.
Nhiều phút trôi qua một ánh sáng lu mờ từ từ tiến đến gần tôi. Những ngọn
đèn bơ và ba vị Sư Trưởng.
- Con hỡi, con đã vượt qua cuộc thử thách con đã nằm trên phiến đá này suốt
ba ngày ba đêm. Bây giờ, con đã nhìn thấy, con đã trải qua sự chết và con đã
sống lại.
Khi ngồi dậy, tay chân cứng đơ, tôi lảo đảo vì yếu sức và vì đã lâu không cữ
động.
Khi tôi bước ra khỏi ngôi mộ cỗ mà tôi không bao giờ quên suốt đời tôi, tôi
đã thở bầu không khí lạnh như băng trong các đuờng hầm bí mật. Cơn đói khát
làm cho tôi muốn xỉu và tôi bị hoang mang xúc động bởi tất cả những gì tôi
nhìn thấy, bởi tất cả những gì mà cái kinh nghiệm vừa qua đã cho tôi biết.
Về đến đạo viện, tôi ăn uống đến thỏa lòng; đêm đó khi tôi đi ngủ, tôi hiểu
rằng những lời tiên tri sẽ được thực hiện và không bao lâu tôi phải rời khỏi
xứ Tây Tạng để đi đến những xứ xa lạ. Bây giờ, khi tôi đã biết những xứ ấy
rồi, tôi có thể nói rằng đối với tôi những xứ ấy có vẻ kỳ dị hơn là tôi
tưởng tượng!
Vài ngày sau đó, tôi cùng với sư phụ đang ngồi trên bờ sông hạnh phúc thì
một người kỵ mã phi nước đại chạy ngang. Khi y nhìn ra Minh Gia Đại Đức, y
đột ngột dừng ngựa đến nỗi vó ngựa hất văng những đám mây bụi xoay tít trong
cơn gió lốc. Y xuống ngựa và nói:
- Tôi có mang thông điệp của đấng thậm thâm gửi cho vị Lạt Ma Lâm Bá.
Y rút trong túi áo một bức thơ bao bọc ở trong một khăn choàng theo nghi lễ
truyền thống, và sau khi chuyển giao bức thư cho tôi với ba lần váy chào y
bèn lui gót thót lên lưng ngựa và phóng nước lớn đi ngay.
Lúc ấy tôi không còn e dè sợ sệt gì nữa; kinh nghiệm vừa rồi của tôi ở dưới
hầm điện Potala đã đem cho tôi sự tự tin. Tôi bèn mở bao thơ và đọc bức
thông điệp trước khi chuyển giao cho Minh Gia Đại Đức, sư phụ tôi. Tôi nói:
- Sáng ngày mai, con phải đến vườn Ngọc Uyển để bái yết đấng Thậm Thâm. Ngài
cũng có mời sư phụ cùng đến.
Sư phụ tôi đáp:
- Lâm Bá, tuy thầy không có thói quen thăm dò những ý định thầm kín của đức
Thái Tế, nhưng thầy cảm thấy rằng không bao lâu con sẽ lên đường sang Trung
Hoa. Còn thầy, thì... như thầy đã nói với con, không lâu nữa thầy sẽ từ giã
cõi trần để quay về thượng giới. Chúng ta hãy vui với ngày hôm nay và tận
dụng thời giờ ít oi còn lại.
Qua ngày hôm sau, một lần nữa tôi theo con đường quen thuộc đến vườn Ngọc
Uyển; sau khi xuống chân đồi tôi đi trên đường Lingkhor và đến trước cổng
vườn. Minh Gia Đại Đức cùng đi với tôi. Hai thầy trò chúng tôi cùng có một
tư tưởng giống nhau: Có lẽ chúng tôi đang cùng đi chung một lần cuối cùng để
viếng thăm đấng Thậm Thâm. Những cảm nghĩ đó chắc hẳn đã hiện rỏ trên nét
mặt của tôi vì khi tôi ngồi một mình với Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngài nói:
- Giờ phút chia ly, để mỗi người đi một đường bao giờ cũng đầy sự sầu thảm
bi ai. Ở đây, trong ngôi nhà mát này, ta đã suy gẫm nhiều giời về vấn đề tối
hậu nầy, là nên ở lại hay nên đi khi xứ sở ta bị nạn ngoại xâm? Dầu cho ta
quyết định như thế nào cũng có người phải chịu khổ sở. Lâm Bá con hỡi, con
đường của con đã được vạch sẵn và tất cả con đường đều khó nhọc gian nan.
Gia đình, tổ quốc, bạn bè... con phải bỏ hết tất cả. Con sẽ gặp, trên bước
đường đời của con như con đã biết trước, sự hiểu lầm, sự nghi nan, đố kỵ
cùng sự ngược đãi tra tấn và tất cả những gì đau khổ đắng cay. Cách xử thế
của những người ngoại quốc rất kỳ dị và không thể giải thích. Như ta đã nói
với con, họ chỉ tin nơi những gì họ có thể làm, những gì họ có thể phân chất
trong các phòng thí nghiệm khoa học. Còn cái khoa học quan trọng nhất là
khoa học về chân ngã thì họ không quan tâm. Đó là con đường của con, con
đường mà con đã chọn trước khi sinh ra ở kiếp này. Ta đã quyết định biệt
phái con sang Trung Hoa năm ngày nữa.
Năm ngày! Chỉ còn năm ngày thôi trong khi tôi hy vọng sẽ dài đến năm tuần
lễ.
Trên đường về tu viện Chakpori, sư phụ và tôi không trao đổi với nhau một
lời nào. Khi về đến tu viện người mới nói.
- Lâm Bá, con phải về thăm cha mẹ, thầy sẽ cho người đi báo tin cho cha mẹ
con hay trước.
Cha mẹ tôi? Thầy tôi đã đối xử với tôi còn hơn cả bậc phụ mẫu. Và không bao
lâu người sẽ từ giã cuộc đời: Người sẽ từ trần trước khi tôi quay trở về Tây
Tạng trong vài năm sau. Di tích của người để lại cho tôi là cái xác ướp mạ
vàng đặt tại phòng các vị hóa thân, cái thể xác vô tri mà người vứt bỏ như
một cái áo cũ đã trở nên vô dụng.
Qua ngày thứ ba, tôi trở về nhà cũ của tôi. Tôi đi một mình và đi bộ như cái
ngày mà tôi rời khỏi nhà để đi vào tu viện. Nhưng trong thời gian qua tôi đã
trở nên một vị Lạt Ma và một vị Sư Trưởng. Cha mẹ tôi đợi tôi ở nhà và đón
tiếp như một vị thượng khách. Tối hôm ấy tôi lại đến văn phòng của cha tôi
để ký tên vào quyển gia phả và ghi vào đó những tước vị của tôi. Sau đó, tôi
lại đi bộ trở về tu viện, nó đã trở nên nhà của tôi từ bấy lâu nay.
Hai ngày cuối cùng cũng trôi qua rất mau. Trước ngày lên đường tôi đến bái
yết Đức Đạt Lai Lạt Ma một lần cuối cùng. Tôi nói vài lời từ giã và ngài ban
ân huệ cho tôi. Lòng tôi se thắt khi tôi từ biệt ngài. Cả ngài và tôi đều
biết rằng chúng tôi sẽ gặp trở lại ngày mà tôi từ trần sang cõi giới bên
kia.
Qua ngày hôm sau tôi lên đường vào lúc bình minh, bước đi chậm chạp và lòng
không hứng khởi. Lại một lần nữa tôi bước chân trên con đường thiên lý không
một mái nhà riêng, hướng về những chân trời xa lạ. Tôi phải bắt đầu lại tất
cả. Đi đến điểm cao tột của truông núi, tôi quay đầu nhìn lại rất lâu, và đó
cũng là cái nhìn cuối cùng của tôi xuống thành phố thánh địa Lhassa.
Một con diều đơn chiếc đang bay lượn trên điện Potala.Hết
!!!
|