Chuyến Du Hành Lên Tỉnh Kashmir
- Thưa cha, con muốn mời Sư Phụ và bốn người bạn cùng đi với con lên dãy Hy Mã
Lạp Sơn trong dịp nghĩ hè. Cha có thể cho con sáu vé xe lửa đi Kashmir và tiền
túi để đi đường?
Như tôi đã đoán trước, cha tôi liền bật cười:
- Đây là lần thứ ba mà con xin cha chuyện đó! Phải chăng con đã xin cha như thế
trong dịp hè cách đây hai năm? Vào giờ chót, Sri Yukteswar đã từ chối không đi.
- Thưa cha, đúng vậy. Con không biết lần này Sư Phụ có định đi không. Nhưng nếu
con cho người biết rằng vé xe lửa đã sẵn sàng thì con hy vọng Sư Phụ rốt cuộc sẽ
chịu đi.
Cha tôi không tin chuyện ấy lắm, tuy nhiên ngày hôm sau người đưa cho tôi sáu
tấm vé biếu đặc biệt và một cuộn giấy bạc mười rupees:
- Cha không nghĩ rằng cuộc du hành tưởng tượng của con phải cần dùng đến những
thứ này, nhưng dù sao con cũng cứ cầm lấy!
Trong ngày hôm đó, tôi phô trương món quà đó trước mặt Sư Phụ, người mỉm cười về
sự hứng khởi của tôi và nói một cách phân đôi, không quả quyết lắm:
- Thầy cũng mong có thể đi được, để xem sao.
Ngoài ra tôi còn mời bốn người bạn trong số đó Kanai, một đệ tử trẻ nội trú tại
đạo viện, Rajendra Nath Mitra, Jotin Auddy và một bạn khác, ngày lên đường đã
định là thứ Hai tuần tới.
Ngày thứ Bảy và Chủ Nhật tôi có mặt ở Calcutta để dự lễ cưới của một người anh
họ tổ chức tại nhà tôi. Sáng sớm ngày thứ Hai, tôi đến Serampore với đồ hành lý.
Rajendra đã đợi tôi trước cửa đạo viện và nói:
Sư Phụ không chịu đi, người mới bước ra đi dạo một vòng.
Tôi cảm thấy bất mãn, và sau cùng tôi quyết định:
- Tôi không thể để cho cha tôi cười một lần thứ ba về những kế họach ngao du
tưởng tượng của tôi nữa. Chúng ta cũng cứ đi dù không có Sư Phụ.
Rajendra bằng lòng. Tôi rời khỏi đạo viện để tìm một đứa gia nô vì tôi biết rằng
Kanai sẽ không đi nếu không có Sư Phụ và tôi cần một người để coi sóc hành lý.
Tôi nghĩ đến Behari, trước kia đã từng giúp việc trong gia đình tôi và hiện đang
giúp việc nhà cho một vị giáo chức ở Serampore. Trong khi tôi đang đi mau, tôi
gặp Sư Phụ ở trước nhà thờ Gia Tô cách tòa án Serampore không xa. Sư Phụ có vẻ
không vui:
- Con đi đâu?
- Bạch Sư Phụ, con nghe Kanai không chịu đi trong chuyến du ngoạn mà con đã sắp
đặt. Con phải đi tìm Begari. Sư Phụ có nhớ chăng năm ngoái, nó thích đi chơi
Kashmir đến nỗi nó đòi đi theo phục dịch chúng con mà không nhận tiền thù lao.
- Thầy nhớ. Tuy nhiên, Thầy không tin rằng lần này nó chịu đi.
Tôi càng bực mình:
- Nhưng, bạch Sư Phụ, đó là cái mộng mà nó vẫn ôm ấp từ lâu kia mà!
Sư Phụ lặng thinh và tiếp tục cuộc đi dạo, còn tôi thì đi đến nhà vị giáo chức.
Đến trước sân, Behari tiếp đón tôi một cách nồng nhiệt nhưng thái độ ấy liền đổi
thành một sự dè dặt khó hiểu khi tôi vừa nói đến Kashmir. Với vài lời xin lỗi, y
bèn kiếu từ và đi vào nhà người chủ của y. Tôi đợi mất nửa giờ ngoài sân, hy
vọng một cách mơ màng rằng chắc có lẽ y vào nhà trong để chuẩn bị hành trang lên
đường. Sau cùng tôi gõ cửa. Người chủ nhà bước ra, mỉm cười và nói:
- Behari đã đi chợ bằng cửa sau cách đây độ nửa giờ.
Tôi bước đi trong sự thất vọng và tự hỏi phải chăng vì lời mời của tôi quá đột
ngột hay đó là do ảnh hưởng vô hình của Sư Phụ. Khi tôi đi gần đến nhà thờ, tôi
thấy Sư Phụ từ từ bước đến. Không đợi cho tôi nói gì, người bèn nói trước:
- À vậy là Behari cũng không đi! Bây giờ chương trình con ra sao?
Tôi cảm thấy như một đứa con ngỗ nghịch, quyết định đương đầu với cha:
- Bạch Sư Phụ, con sẽ yêu cầu chú con cho mượn người gia nô tên là Lai Dhari.
Sri Yukteswar đáp với nụ cười:
- Con cứ đi hỏi cậu con nếu con thấy cần. Nhưng Thầy không tin rằng con sẽ thành
công.
Tôi từ biệt Sư Phụ và đi vào pháp đình Serampore. Chú tôi là Sarada Gosh làm
luật sư tại tòa án, tiếp đón tôi một cách cởi mở. Tôi nói:
- Hôm nay cháu cùng với vài người bạn đi du ngoạn lên xứ Kashmir. Từ mấy năm nay
cháu vẫn hằng mong ước có dịp đi chơi trên dãy núi Hy Mã Lạp Sơn.
- À, chú cũng chung vui với cháu. Cháu có muốn chú giúp đỡ điều gì trong cuộc đi
chơi này không?
Những lời chú cởi mở đó có vẻ khích lệ đối với tôi:
- Thưa chú, cháu có thẻ mượn người gia nô Lai Dhari chăng?
Lời yêu cầu khiêm tốn này có ảnh hưởng như một tiếng sét đánh. Chú tôi nhảy dựng
lên mạnh đến nỗi nó làm lật đổ bàn ghế, những giấy tờ trên bàn bay tản mác tứ
phía, cái ống điếu dài đẽo bằng cây dừa của chú lăng long lóc xuống cái sàn
gạch. Chú hét lớn trong cơn thịnh nộ:
- Đồ ích kỷ! Thật là hỗn láo! Ai sẽ lo việc nhà cho tao nếu mày đem người nô bộc
của tao đi theo mày chơi?
Tôi cố dấu vẻ ngạc nhiên và nghĩ rằng sự thay đổi tâm lý đột ngột này lại là một
trong những sự kỳ lạ bí hiểm trong ngày hôm đó. Tôi bèn hối hả rút lui, không
màng nghĩ đến lòng tự ái bị va chạm!
Tôi trở lại đạo viện, tại đây các bạn tôi đã đợi sẵn. Trong trí tôi bắt đầu nảy
sinh ra một sự tin tưởng chắn chắn rằng thái độ của Sư Phụ hẳn là có lý do chính
đáng. Tôi cảm thấy hối hận vfi đã không chịu vâng lời Sư Phụ.
Sri Yukteswar thấy tôi bèn hỏi:
- Mukunda, con có muốn ở nán lại với Thầy thêm ít lâu chăng? Rajendra và các bạn
có thể đi trước và đợi con ở Calcutta, khi đến đó con sẽ có thừa thời giờ đáp
chuyến xe cuối cùng lúc chiều để đi lên Kashmir.
- Bạch Sư Phụ, con cảm thấy không vui nếu không có Sư Phụ cùng đi.
Các bạn tôi không hề để ý đến lời tuyên bố này. Họ kêu một cổ xe ngựa, chất hành
lý lên xe và đi thẳng Kanai còn tôi lẳng lặng ngồi dưới chân Sư Phụ. Sau độ ba
mươi phút im lặng hoàn toàn, Sri Yukteswar đứng dậy đi lên phòng ăn trên lầu hai
và nói:
- Kanai, con hãy theo săn sóc Mukunda. Chuyến xe lửa đã sắp khởi hành.
Thình lình tôi vặn mình đau đớn với cơn buồn mửa, trong bụng quặn đau một cách
kinh khủng. Cơn đau nhức nhối như dùi nhọn đâm vào ruột, tôi cảm thấy như một
tội nhân bị quỉ sứ hành hình moi ruột dưới địa ngục. Tôi bò lết đến chỗ Sư Phụ
ngồi và ngã vật xuống chân người, khi đó tôi mới biến tôi đã bị bệnh thời khí Á
Châu, một chứng bệnh vô cùng hiểm nghèo! Sư Phụ cùng với Kanai khiêng tôi vào
phòng khách. Bị dày vò trong cơn đau đớn, tôi rên siết:
- Bạch Sư Phụ, con xin giao mạng sống của con vào tay Sư Phụ.
Tôi cảm thấy dường như linh hồn tôi sắp sửa bị dứt ra khỏi thể xác một cách tàn
nhẫn, phủ phàng!
Sri Yukteswar đặt đầu tôi lên hai đầu gối của người, vuốt trán tôi một cách nhẹ
nhàng và nói:
- Con thấy việc gì sẽ xảy ra cho con nếu con cùng với các bạn đi ra nhà ga từ
lúc này! Thầy đã phải coi chừng săn sóc con một cách kín đáo vì con đã cãi lời
Thầy mà muốn đi du ngoạn vào thời kỳ bất lợi.
Sau cùng tôi đã hiểu. Khi một vị tôn sư không chịu phô trương quyền năng của
mình trước mắt mọi người thì người ta có thể nghĩ rằng sự việc đã diễn ra một
cách bình thường. Sự can thiệp của Sư Phụ đã diễn ra một cách qua âm thầm tế nhị
nên không ai hay biết gì cả. Sư Phụ đã ảnh hưởng đến Behati; vị luật sư Sarada,
tức chú tôi; Rajendra và những người khác; một thứ ảnh hưởng vô hình vô ảnh đến
nỗi tất cả mọi người trừ tôi ra đều nghĩ rằng sự việc đã xảy ra một cách tự
nhiên và không có gì ngoài sự bình thường. Vì Sư Phụ không bao giờ quên noi theo
những tập quán thông thường, người khiến Kanai đi gọi một y sĩ chuyen khoa và
báo tin cho chú tôi hay. Tôi kêu nài:
- Bạch Sư Phụ, chỉ có Sư Phụ mới có thể chữa khỏi bịnh cho con. Bịnh trạng của
con quá nguy kịch, một y sĩ có thể làm được gì?
- Con hỡi, cầu xin Thượng Đế ban ân huệ thiêng liêng cho con! Con đừng băn khoăn
về việc gọi y sĩ; y sĩ không còn thấy con ở vào tình trạng nguy kịch ấy nữa, vì
con đã khỏi bệnh!
Sư Phụ vừa nói xong, cơn đau bụng dữ dội của tôi liền biến mất. Tôi ngồi dậy
nhưng hãy còn yếu. Không bao lâu vị y sĩ đã đến nơi và khám tôi rất tỉ mỉ rồi
nói:
- Em vừa trải qua một cơn đau kinh khủng. Tôi phải lấy máu để thử vi trùng xem
sao.
Sáng ngày hôm sau, vị y sĩ hối hả trở lại thì thấy tôi đã ngồi dậy và cười nói
vui vẻ.
- À, em đã nói chuyện được và lại tươi cười dường như mới ngày hôm qua đây em
không ở dưới manh vuốt của Tử Thần!
Y vỗ nhẹ vào bàn tay tôi:
- Tôi không chắc là sẽ thấy em còn sống hôm nay khi cuộc khảo nghiệm hóa học cho
biết là em bị chứng thời khí Á Châu. Em thật là phúc đức có được một vị tôn sư
có quyền năng chữa bệnh, một quyền năng thiêng liêng của Trời Phật ban cho! Tôi
không nghi ngờ gì về việc ấy.
Tôi cũng hoàn toàn đồng ý. Khi vị y sĩ kiếu từ ra về, Rajendra và Auddy xuất
hiện ở trước cửa. Họ có vẻ bất mãn những sắc mặt họ liền hòa dịu trở lại khi họ
nhìn thấy vị y sĩ và gương mặt hãy còn xanh mét của tôi.
- Chúng tôi rất tức giận khi thấy anh không đến với chúng tôi tại Calcutta như
đã hẹn trước. Anh bị đau hay sao?
- Phải.
Tôi không thể nín cười khi tôi thấy các bạn tôi đặt đồ hành lý xuống ngay chỗ
ngày hôm qua.
Lúc đó Sư Phụ bước vào gian phòng. Tôi lấy tư cách một kẻ đang nằm dưỡng bệnh để
tự cho phép nắm lấy bàn tay Sư Phụ một cách trìu mến:
- Bạch Sư Phụ, từ năm con mười hai tuổi đến nay con đã mưu toan thất bại nhiều
lần để đi lên dãy Hy Mã Lạp Sơn. Bây giờ con tin rằng nếu không có ân huệ của Sư
Phụ, đức Phật Mẫu Quan Âm chắc sẽ từ chối không chịu tiếp con ở trên đó!
“Nay con đã khá mạnh khỏe để co thể lên đường, Thầy sẽ cùng đi với con lên
Kashmir.” Sư Phụ nói với tôi hai ngày sau khi tôi được chữa khỏi bệnh thời khí Á
Châu một cách mầu nhiệm. Chiều hôm ấy, sáu người trong nhóm chúng tôi đáp chuyến
xe lửa lên miền Bắc. Trạm ngừng đầu tiên là Simla, một thành phố hùng vĩ dưới
chân Hy Mã Lạp Sơn. Chúng tôi đi dạo chơi trên những con đường dốc và chiêm
ngưỡng phong cảnh đẹp của miền núi.
- Ai mua dâu không?
Một bà già bán dâu tươi ngồi rao hàng tại một góc chợ của thành phố. Những trái
dâu đỏ thắm khêu gợi sự chú ý của Sư Phụ. Người mua một giỏ đầy và đưa cho chúng
tôi ăn. Tôi nếm thử một trái nhưng liền nhăn mặt và nhả ra:
- Bạch Sư Phụ, dâu chua quá! Chắc không bao giờ con ăn nữa!
Sư Phụ bèn cười và nói:
- Trái lại, sau này con sẽ thích ăn dau hơn, khi con sang Mỹ Quốc. Trong một bữa
cơm tối, bà chủ nhà sẽ dọn ra cho con món dâu chua với đường và kem. Bà ấy sẽ
nghiền nát những trái dâu bằng một cái nĩa và con sẽ khen rằng, “Thật là ngon
tuyệt diệu!” Chừng đó con sẽ nhớ đến ngày hôm nay ở Simla.
Tôi hoàn toàn quên lửng lời tiên tri đó và chỉ nhớ lại nhiều năm về sau. Sau khi
đến Mỹ Quốc, một hôm tôi được mời dùng cơm tối tại nhà bà Alice T. Hasey tại
West Somerville, Massachusetts. Đến lúc ăn tráng miệng, bà chủ nhà cầm một cái
nĩa, nghiền nát những trái dâu đỏ rồi thêm kem và đường. Bà mời toi dùng và nói:
- Những trái dâu này rất chua, tôi mong đại đức sẽ thích dùng nó với kem và
đường.
Tôi nếm thử một muỗng bất giác thốt lên:
- Thật là ngon tuyệt trần!
Khi đó lời tiên tri của Sư Phụ mới trở lại trong ký ức của tôi. Tôi lấy làm kinh
ngạc mà thấy rằng nhiều năm trước đây, tinh thần Sư Phụ hòa hợp với Thiêng
Liêng, đã nhìn thấy sự liên hệ về nhân quả giữa các sự việc diễn biến sẽ xảy ra
trong tương lai.
Nhóm chúng tôi lại rời Simla để đáp chuyến xe lửa đi Rawalpindi. Tại đây chúng
tôi thuê một chiếc xe song mã để thực hiện một chuyến đi bảy ngày đến Srinagar,
thủ phủ tỉnh Kashmir. Qua ngày thứ hai của cuộc hành trình bằng xe song mã lên
miền bắc, chúng tôi đã thấy xuất hiện dãy Hy Mã Lạp Sơn trước cặp mắt kinh ngạc
của chúng tôi. Những bánh xe bằng sắt của chiếc xe song mã kêu rít lên treen con
đường lót đá nóng như thiêu đốt dưới ánh mặt trời, nhưng phong cảnh vĩ đại của
miền núi đưa tâm hồn chúng tôi lên một trạng thái lâng lâng thoát tục. Auddy bèn
thưa với Sư Phụ:
- Bạch Tôn Sư, con rất hân hạnh mà được thưởng thức toàn vẹn phong cảnh huy
hoàng này bên cạnh tôn sư.
Lời nói đó của Auddy làm cho tôi khoái chí vì tôi cảm thấy vai trò hướng dẫn của
tôi có vẻ quan trọng. Sri Yukteswar đọc được tử tưởng của tôi vì Sư Phụ day qua
tôi và nói nhỏ:
- Con đừng quá vui thích như thế! Auddy ít thưởng thức cảnh đẹp hơn là muốn tìm
một góc nào đó để được tự do hút thuốc lá.
Tôi cảm thấy dội ngược, và nói nhỏ lại:
- Bạch Sư Phụ, Sư Phụ quá nghi ngờ chăng? Con không tin rằng Auddy lại nghiện
thuốc lá.
Tôi vừa nói vừa nhìn Sư Phụ một cách do dự vì người thường hay nói đâu trúng đó.
Sư Phụ cười nói:
Được rồi. Thầy sẽ không nói gì với Auddy. Nhưng con sẽ thấy rằng đến trạm ngừng
tới đây, Auddy sẽ không để lỡ cơ hội.
Chiếc xe ngựa ngừng trước một trạm nghỉ. Khi người ta dắt ngựa đi uống nước,
Auddy liền thưa:
- Bạch tôn sư, lát nữa xin tôn sư cho phép con ngồi đàng trước với người đánh
xe. Con muốn ngồi ngoài để hứng luồng gió cho mát.
Sư Phụ gật đầu và quay qua nói nhỏ với tôi:
- Nó không phải muốn hứng gió mà là thèm thuốc lá.
Chiếc xe song mã lại lăn bánh kêu rít lên trên đường lộ. Đôi mắt Sư Phụ long
lanh sáng, người bảo tôi:
- Con hãy thò đầu qua cửa sổ và nhìn xem Auddy hứng gió!
Tôi vâng lời và lấy làm ngạc nhiên mà nhìn thấy Auddy đang thở ra những vòng
khói tỏa theo chiều gió. Tôi liền xin lỗi Sư Phụ:
- Bạch Sư Phụ, Sư Phụ luôn luôn nói có lý. Auddy thật sự đang thở khói mù mịt
như ống khói tàu!
Tôi chắc là bạn tôi đã xin một điếu thuốc của người đánh xe, vì tôi biết y không
có mua thuốc lá tại Calcutta.
Chúng tôi dong ruỗi trên đường núi gập ghềnh khúc khuỷu và một viễn ảnh huy
hoàng đẹp đẽ diễn ra trước mắt chúng tôi đến tận chân trời: sông rạch, thung
lũng, vực thẳm, sườn núi cheo leo. Chúng tôi ngủ đêm trong những quán trọ đơn sơ
ở dọc đường và tự nấu lấy các bữa ăn. Sri Yukteswar đặc biệt chăm nom bữa ăn của
tôi và bảo tôi phải uống nước chanh. Tuy hãy còn yếu, tôi lấy lại sức lần lần
mặc dù đi du lịch bằng xe ngựa chạy trên đường núi không lấy gì làm tiện nghi
cho lắm.
Tâm hồn chúng tôi tràn đầy một niềm hứng khởi khi chúng tôi đến gần trung tâm
tỉnh Kashmir, một nơi đất lành với những hồ sen rộng lớn, những vườn hoa mọc
trên mặt nước, những chiếc du thuyền màu mè sặc sỡ, con sông Jhelum với vô số
những chiếc cầu vồng, những đồng cỏ xanh tươi điểm lác đác những đóa hoa rừng
được bao bọc chung quanh bằng dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ!
Chúng tôi đến viếng ngôi đền cổ ở Srinagar với đạo viện hàng cầy cổ thụ có tàn
che bóng mát và htuê phòng tại một lữ quán hai tầng. Mùa hè năm ấy, tiết trời
tuyệt đẹp, ban ngày thì nóng, ban đêm hơi lạnh.
Chúng tôi đến viếng ngôi đền cổ ở Srinagar với đạo viện Shankara, trong khi tôi
đang ngắm nnìn đạo viện trên đỉnh một ngọn núi mà nóc nhọn chỏ lên trên nền trời
xanh biếc, thình lình tôi rớt vào một trạng thái bằng an phúc lạc lạ thường.
Dưới mắt tôi, đạo viện Shankara biến thành cái linh ảnh của mọt ngôi kiến trúc
mà nhiều năm về sau tôi dùng làm tổng hành dinh Cơ Quan Thực Hiện Chân Ngã của
tôi ở Mỹ Quốc. Khi tôi viếng thành phố Los Angeles lần đầu tiên và nhìn thấy
ngôi biệt thứ này từ ngọn núi Washington, tôi liền nhận ra ngay ngôi nhà kiến
trúc đồ sộ đã từng xuất hiện trong vô số những cơn linh ảnh của tôi.
Sau khi đã trải qua vài tuần lễ nghĩ hè ở tỉnh Kashmir, tôi phải trở về tỉnh
Bengale nhân dịp tựu trường ở Serampore College. Sư Phụ còn ở lại Srinagar với
Kanai và Auddy. Trước khi tôi lên đường, Sư Phụ nói cho tôi biết người sẽ bị đau
nặng ở Kashmir. Tôi nói:
- Nhưng Sư Phụ đang dồi dào sức khỏe kia mà.
- Thậm chí, có lẽ Thầy cũng phải từ giã cõi trần.
- Ô, Sư Phụ!
Tôi vừa nói vừa thụp xuống chân người:
- Sư Phụ hãy hứa với con là không rời bỏ thể xác trong lúc này. Con sẽ không thể
được nếu không có Sư Phụ.
Sri Yukteswar giữ im lặng nhưng nụ cười đầy vẻ từ ái của người làm tôi yên lòng.
Tôi bèn từ giã người một cách luyến tiếc.
Vài ngày sau khi tôi trở về đạo viện Serampore, tôi nhận được bức điện tín của
Auddy, “Sư Phụ đau nặng.”
Tôi gửi một điện tín cho Sri Yukteswar, “Sư Phụ đã hứa không từ bỏ con. Sư Phụ
đừng rời bỏ thể xác, nếu không con sẽ chết theo.”
Từ Kashmir, Sư Phụ gửi điện tín trả lời, “Sẽ y như điều con mong ước.”
Vài ngày sau đó, tôi nhận được thư của Auddy cho biết rằng Sư Phụ đã bình phục.
Nửa tháng sau, khi Sư Phụ và các đệ tử đã về tới Serampore, tôi lấy làm buồn mà
nhận thấy rằng Sư Phụ đã sụt cân rất nhiều.
Sri Yukteswar bị đau nặng để cứu chuộc những tội lỗi của các đệ tử! Phương pháp
chuyển di bệnh tật là một điều mà các nhà đạo sĩ cao tay vẫn biết rõ. Một người
khỏe mạnh có thể giúp đỡ một người yếu đuối bằng cách mang theo một đồ vật nặng
thế cho y; cũng giống như thế, một bậc siêu nhân có trình độ tiến hóa cao có thể
làm nhẹ bớt gánh nặng thể chất hoặc tinh thần của các đệ tử bằng cách tự mình
gánh chịu lấy cái nghiệp quả của họ. Cũng như một người giàu chịu mất một ít
tiền để trả nợ cho con cái y để cứu họ thoát khỏi hậu quả của những việc làm bất
chánh, một vị tôn sư hy sinh một phần sức khỏe thể chất của mình để làm nhẹ bớt
những nỗi đau khổ bệnh tật của các đệ tử.
Người đạo sĩ Yogi biết cái bí thuật giao cảm trên cõi giới vô hình với một người
bình thường, bởi thế bệnh của người này được truyền một phần hoặc tất cả sang
thể xác của người Yogi. Một vị tôn sư đã đạt tới hợp nhất tâm linh với Chân Như
Đại Thể của Vũ Trụ không còn bận tâm đến việc gì xảy ra cho cái thể xác bằng
xương bằng thịt của mình. Tuy rằng vị ấy tình nguyện cho xác thân mình nhuốm
bệnh để giúp đỡ kẻ khác, tinh thần của người vẫn còn nguyên vẹn và không hề
thương tổn, người lấy làm sung sướng mà có thể làm nhẹ bới nỗi khổ của kẻ khác.
Người tu sĩ đạt tới sự giải thoát tâm linh, biết rằng thể xác của mình đã hoàn
tất cái vai trò của nó; từ nay người có thể sử dụng nó bằng cách nào tùy ý. Sứ
mạng của người ở trên thế gian là làm nhẹ bớt những nỗi khổ đau của nhân loại
bằng mọi phương diện tâm linh, vật chất hay trí huệ; giúp đỡ bằng lời khuyên
sáng suốt tốt lành, sức mạnh của ý chí, hay bằng việc chuyển di bệnh tật của
người khác sang cho mình. Một vị tôn sư đã hoạt động tự do trên cõi siên thức có
thể tự làm cho mình không còn biết cảm xúc những sự đau đớn của xác thân. Đôi
khi người cũng tình nguyện chịu đựng sự đau đớn thể xác một cách can đảm để làm
gương cho các đệ tử. Người Yogi hứng chịu sự đau khổ của kẻ khác về phần mình,
tức là thanh toán giùm cho họ những oan nghiệt nợ nần mà họ phải chịu theo định
luật nhân quả: định luật này vốn hành động một cách máy móc theo phép số học và
có thể được điều chỉnh một cách khoa học bởi vì các bậc siêu nhân đã nếm mùi
giải thoát.
Những định luật siêu nhiên không bắt buộc một vị tôn sư phải bị đau nặng nề để
chữa khỏi bệnh cho người khác. Sự khỏi bệnh thường xảy ra bởi vì vị tôn sư biết
rõ các phương pháp chữa bệnh một cách nhiệm mầu mà không làm tổn đến sức khỏe
của mình. Tuy nhiên trong vài trường hợp rất hiếm, vị tôn sư vì muốn thúc đẩy
mau chóng sự tiến hóa tâm linh của các đệ tử, có thể tình nguyện hứng chịu lấy
một phần nghiệp quả xấu của họ trên bản thân mình.
Chính bằng cách đó mà đức Giê-Su đã tình nguyện cứu chuộc tội lỗi thế gian.
Thánh thể của Chúa đáng lẽ không bao giờ có thể bị tử nạn trên thập tự giá nếu
Ngài không có tình nguyện hợp tác với những định luật huyền bí về nhân quả trong
vũ trụ. Ngài đảm nhiệm lấy cái khối nghiệp quả chung của toàn thể nhân loại và
đặc biệt nhất là của các vị thánh tông đồ, đệ tử của Ngài, nhờ đó các vị này mới
được tinh luyện và trở nên xứng đáng nhận lãnh sự giác ngộ tâm linh siêu đẳng.
Chỉ có những bậc tôn sư đã giác ngộ mới có thể thực hiện sự chuyển di tôn sinh
lực của mình cho kẻ khác, hoặc hứng chịu lấy bệnh tật của kẻ khác trên xác thân
mình. Bí thuật chữa bệnh bằng phương pháp Yoga này thật là ngoài vòng khả năng
của kẻ thế nhân phàm tục, đối với họ nó lại là một điều không nên khuyến khích,
bởi vì một thể xác đau ốm bệnh tật là một chướng ngại cho sự công phu tưởng
luyện. Các Thánh Kinh Ấn Độ đều nói rằng bổn phận đầu tiên của con người là giữ
cho thể xác được mạnh khỏe, nếu không, tinh thần sẽ không thể bước vào trạng
thái thiền định thâm sâu.
Tuy nhiên, một tinh thần dũng mãnh có thể bất chấp những chướng ngại của thể
chất để thực hiện sự giác ngộ tâm linh. Nhiều vị Thánh đã đạt tới mục đích đó mà
khinh thường bệnh tật của thể xác. Thánh Francoise d’Assise trong một tình trạng
ốm đau tuyệt vọng, đã thực hiện những cuộc chữa bệnh rất nhiệm mầu và thậm chí
đã cải tử hồi sinh cho một người.
Tôi được biết một vị tưởng sĩ Ấn Độ bị chứng ung nhọt lở loét khắp cả nửa thân
mình, cùng với bệnh đái đường rất nặng đến nỗi xét về những trường hợp thông
thường thì vị ấy không thể nào ngồi được hơn một khắc đồng hồ, nhưng tinh thần
của người thật tinh tiến dũng mãnh phi thường. Bằng một ý chí mãnh liệt tưởng sĩ
có thể ngồi thiền trong tư thế liên hoa suốt mười tám giờ mỗi ngày không gián
đoạn trong trạng thái xuất thần nhập định. Về sau vị ấy thuật cho tôi nghe rằng:
Sau ba năm thiền định công phu, Ánh Sáng thiêng liêng tràn ngập vào thể xác bịnh
tật của tôi mà trong cơn xuất thần say sưa mùi Đạo, tôi quên hẳn không còn cảm
giác được nó nữa. Về sau, do ân phước thiêng liêng, cái thể xác của tôi đã hoàn
toàn khỏi hết các bệnh tật.
Một trường hợp lịch sử về việc chữa khỏi bịnh một cách nhiệm mầu là của vua
Baber (1983-1530), nhà sáng lập nên đế quốc Mogul ở Ấn Độ. Khi thái tử Humayun
vướng phải một chứng bệnh hiểm nghèo thập tử nhất sinh, nhà vua trong cơn lo sợ
bèn cầu nguyện Thiêng Liêng hãy để cho người nhuốm bệnh thay cho thái tử. Khi
các vị y sĩ đã tuyệt vọng, thái tử Humayun đột nhiên bình phục một cách bất ngờ,
nhưng Baber hoàng đế lại bị đau nặng và băng hà vì một chứng bệnh giống như của
thái tử. Về sau, thái tử nối nghiệp cha lên ngôi hoàng đế xứ Ấn Độ.
Nhiều người tưởng rằng một vị tôn sư chắc là phải có một sức khỏe phi thường như
Hercules. Điều đó hoàn toàn không đúng. Một thể xác đau yếu không phải là một
dấu hiệu chỉ rằng vị tôn sư không thể đắc Đạo, cũng như một sức khỏe tát biển
dời non không phải là triệu chứng của sự giác ngộ tâm linh. Nói cách khác, sức
khỏe của thể xác không phải là cái tiêu chuẩn để xét đoán sự giác ngộ thiêng
liêng, người ta phải xét đoán một vị tôn sư ở ngay trên lãnh vực tâm linh mà
thôi.
Nhiều học giả Tây Phương tưởng lầm rằng một vị tôn sư là người giảng thuyết các
vấn đề đạo lý, siêu hình bằng lời nói hay bằng sách vở. Trái lại, các bậc hiền
triết đã nói rằng một vị tôn sư phải có thể đạt tới các trạng thái siêu thức tùy
ý muốn, và ở trong trạng thái đại định một cách thường xuyên không gián đoạn.
Chỉ có một bãn lĩnh như thế mới có thể chứng tỏ rằng người hành giả đã chế ngự
được mọi điều vô minh ảo vọng của trần gian.
Chỉ có những bậc Tôn Sư siêu thoát mới có thể đảm trách việc gánh chịu lấy
nghiệp quả của các đệ tử. Sri Yukteswar chỉ bị đau nặng ở Kashmir sau khi đã
được các đấng thiêng liêng cho phép giúp đỡ những đệ tử bằng các phương pháp lạ
lùng đó. Ít có vị thánh nhân nào có đầy đủ minh triết như Sư Phụ tôi vì người đã
được tới sự hòa hợp với Chân Như Đại Thể của vũ trụ.
Khi tôi tỏ lòng ưu ái về sự gầy ốm và sụt cân của người, thì Sư Phụ vui vẻ trả
lời:
Trong cái họa ắt có cái phúc! Bây giờ nhờ gầy bớt Thầy đã có thể mặc cái áo lót
của mình hơi chật mà Thầy đã bỏ không mặc đến từ nhiều năm nay!
Tiếng cười vang với một âm thanh trong trẻo của Sư Phụ làm cho tôi nhớ lại lời
nói của St. Francois d’Assise: “Một ông thánh buồn rầu là một ông thánh đáng
thương hại.”