Vài Kỷ Niệm Lạ Lùng
- Nghe em và con tôi quá đề cao và khâm phục Sri Yukteswar, tôi sẽ đến viếng ông
ấy một lần xem sao!
Bác sĩ thú y Narayan Chunder Roy nói với một giọng trịnh thượng, nhưng tôi không
tỏ ra bất mãn. Ông ta là một người duy vật hạng nặng. Con trai ông, Santosh,
khẩn khoản yêu cầu tôi giúp đỡ cha y, nhưng trường hợp này có vẻ tuyệt vọng.
Qua ngày hôm sau, bác sĩ Roy cùng đi với tôi đến đạo viện Serampore, Sư Phụ bằng
lòng tiếp ông ta, cuộc hội kiến ngắn ngủi chỉ là một cơn im lặng kéo dài ở cả
đôi bên, sau cùng người khách đứng dậy bỏ về.
- Con đem một người chết tới đây làm gì? Sri Yukteswar hỏi tôi khi cánh cửa vừa
đóng lại phía sau lưng bác sĩ.
- Bạch Sư Phụ, bác sĩ Roy vẫn còn sống!
- Nhưng y sắp chết đến nơi rồi!
Lời nói đó làm tôi xúc động:
- Đó là một điều nặng nề cho người con của ông ta. Santosh hy vọng rằng thời
gian sẽ đánh tan những ý tưởng duy vật của cha y. Cầu xin Sư Phụ hãy giúp đỡ
người này.
- Được, Thầy sẽ làm vừa lòng con; gương mặt Sư Phụ vẫn thản nhiên. Người bác sĩ
thú ý này không biết rằng y bị chứng đái đường rất nặng và y sẽ phải nằm liệt
giường trong vòng mười lăm ngày. Các bác sĩ phải bó tay và y sẽ từ giã cõi đời
trong vòng sáu tuần lễ kể từ ngày hôm nay nhờ sự can thiệp của con nên y sẽ khỏi
bệnh vào ngày đó. Nhưng ta đặt một điều kiện: con hãy khuyên y đeo một vật hộ
phù chiêm tinh, chắc chắn là y sẽ nhảy dựng lên như ngựa trước khi bị đem giải
phẫu!
Sau một lúc im lặng, trong khi đó tôi ngẫm nghĩ nên làm cách nào để thuyết phục
vị bác sĩ thú y, Sư Phụ nói tiếp:
- Khi y cảm thấy khá, con hãy khuyên y nên kiêng ăn thịt. Y sẽ không nghe lời
khuyên đó và y sẽ chết trong sáu tháng, đúng vào lúc mà y tưởng là đã khỏi bệnh.
Sáu tháng phụ trội đó chỉ được ban cho y là do lời cầu xin của con!
Ngày hôm sau, tôi dặn Santosh hãy đăt làm một vật hộ phù tại tiệm kim hoàn, bảy
ngày sau đó, vật ấy đã làm xong nhưng bác sĩ Roy từ chối không chịu đeo.
- Tôi cảm thấy sức khỏe dồi dào. Các con đừng nhát tôi với những bùa phép chiêm
tinh dị đoan đó.
Bác sĩ vừa nói vừa nhìn tôi cười ngạo nghễ. Tôi thích thú mà nhớ lại rằng Sư Phụ
vừa so sánh vị thú y với một con ngựa chứng. Một tuần lễ trôi qua, vị thú y
thình lình nhuốm bịnh, nên đành chịu đeo vật hộ phù. Hai tuần sau, viên y sĩ
khám bệnh cho y nói vói tôi rằng trường hợp ấy đã tuyệt vọgn và nói thêm nhiều
chi tiết về những sự tàn phá trong cơ thể do bệnh đái đường gây ra.
Tôi lắc đầu:
- Sư Phụ tôi nói rằng bác sĩ Roy sẽ bình phục, bịnh này chỉ kéo dài trong vòng
một tháng.
Viên y sĩ nhìn tôi với cặp mắt nghi ngờ. Nhưng hai tuần sau, ông ta gặp lại tôi
và nói:
- Bác sĩ Roy đã hoàn toàn bình phục! Đây là trường hợp lạ lùng nhất trong đời
bác sĩ của tôi. Tôi chưa từng thấy một người nào bịnh đang hấp hối mà tự nhiên
lại bình phục một cách đột ngột như vậy. Thầy của anh chắc chắn là một nhà tiên
tri và chữa bệnh!
Trong cuộc gặp gỡ với bác sĩ Roy, tôi có nói cho ông ta biết Sri Yukteswar có
lời cảnh cáo ông ta không nên ăn thịt. Sau đó tôi không gặp ông ta trong sáu
tháng. Một hôm tôi đang đứng trước hành ba nhà tôi, ông ta từ đâu tiến đến và
nói:
- Em hãy nói với Thầy em rằng sở dĩ tôi mau lại sức là nhờ ăn rất nhiều thịt.
Quan niệm phản khoa học của ông về vấn đề dinh dưỡng không thuyết phục được tôi!
Lúc ấy bác sĩ Roy quả thật là hiện thân của sức khỏe. Nhưng qua ngày hôm sau,
Stantosh hốt hoảng chạy đến nhà tôi:
- Cha tôi thình lình ngã lăn ra chết hồi sáng này!
Đó là một trong những kinh nghiệm lạ kỳ nhất của đời tôi trong thời kỳ tôi sống
chung với Sư Phụ. Người chữa khỏi bệnh cho viên thú y ngoan cố, không màng để ý
đến sự hoài nghi thiển cận của ông ta, và kéo dài đời sống thế gian của ông ta
thêm sáu tháng chỉ vì có lời cầu khẩn của tôi. Sri Yukteswar thường tỏ ra có
lòng ưu ái vô bờ bến đối với những đệ tử chân thành cầu xin người giúp đỡ với
tấm lòng khẩn thiết.
Điều làm tôi hãnh diện là tôi có đặc quyền đem những bạn học của tôi đến gặp Sư
Phụ. Phần nhiều các bạn tôi trong những dịp đó đã từ bỏ thái độ hoài nghi của họ
về vấn đề tôn giáo, một thái độ thịnh hành lúc đương thời.
Một trong những người bạn đó tên Sasim đã trải qua nhiều dịp nghỉ cuối tuần
thích thú tại đạo viện. Sư Phụ có nhiều cảm tình với người thanh niên này và lấy
làm buồn về cuộc đời phóng đãng, vô kỷ luật của y.
- Sasi, nếu con không sửa đổi cách sinh hoạt của con, con sẽ bị đau nặng!
Sri Yukteswar vừa nói vừa nhìn bạn tôi một cách tuyệt vọng.
- Ta nói có Mukunda làm chứng; con sẽ không còn nói rằng ta không khuyên giải
con từ trước.
Sasi cười và nói:
- Bạch Thầy, con xin nhờ Thầy cầu nguyện giùm cho con! Con có nhiều thiện chí
nhưng thiếu can đảm. Trên đời này, Thầy là vị cứu tinh của con, con không tin
được ai nữa ngoài Thầy ra.
- Con phải đeo một hột đá xanh nặng hai carats. Đeo nó có lợi cho con.
- Con không đủ sức sắm vật ấy. Tuy nhiên, nếu con bị chuyện gì nguy cấp, con xin
Thầy che chở cho con.
Sri Yukteswar trả lời với một vẻ bí hiểm:
- Trong vòng một năm, con sẽ đem đến đây ba hột ngọc bích, nhưng lúc bấy giờ thì
những viên ngọc ấy không có ích gì cho con nữa.
Câu chuyện vẫn trở lại chung quanh một vấn đề. Sasi thú nhận với một sự tuyệt
vọng đáng buồn cười:
- Con không thể tự sửa đổi! Đức tin của con đặt nơi Thầy, còn quý báu hơn mọi
loại ngọc quí!
Một năm sau, tôi đến Calcutta cùng với Sư Phụ, người ở tại nhà một đệ tử tên là
Naren Babu. Vào lúc mười giờ sáng, Sư Phụ và tôi đang ngồi nghỉ trong phòng
khách trên lầu, thình lình tôi nghe tiếng mở cửa. Sư Phụ bèn nhỏm dậy và nói một
cách nghiêm trọng:
- Sasi đã đến. Một năm vừa trôi qua, hai buồn phổi của y đã hỏng! Y không nghe
lời Thầy. Con hãy nói rằng Ta không muốn tiếp y.
Tôi chạy xuống lầu thì thấy Sasi cũng đang lần từng bước thang đi lên.
- Mukunda, tôi hy vọng rằng Thầy có ở đây!
- Có, nhưng người không muốn bị ai quấy rầy.
Sasi vừa khóc sướt mướt vừa vượt qua trước mặt tôi để thụp xuống lạy Sư Phụ và
đặt dưới chân người ba viên ngọc bích thật bích.
- Bạch Sư Phụ, các y sĩ nói rằng con bị chứng hoàn lao cấp số! Họ nói con sẽ
không sống được tới ba tháng. Con khẩn cầu Sư Phụ giúp con vì con biết chỉ có Sư
Phụ mới cứu được con.
- Phải chăng đã quá trễ để nghĩ đến việc cải tạo cuộc đời? Con hãy đi đi với
những viên ngọc bích vô dụng này, thời kỳ hiệu nghiệm của nó đã qua rồi.
Sư Phụ nói xong thì chìm vào một cơn im lặng kéo dài, chỉ còn tiếng khóc nức nở
của người thanh niên.
Tôi linh cảm rằng Sri Yukteswar chỉ nói vậy để thử thách đức tin của Sasi nơi
quyền năng chữa bện của người. Bởi đó tôi không ngạc nhiên khi mà một giờ sau,
Sư Phụ ban cho tôi một cái nhìn thương hại và nói:
- Con hãy đứng dậy, Sasi, và đừng làm mất sự yên tĩnh trong nhà người khác! Hãy
trả các viên ngọc bích cho người kim hoàn vì hiện giờ đó là một sự phí tổn vô
ích. Con đừng sợ, trong vài tuần con sẽ cảm thấy khỏi bệnh!
Một nụ cười chói sáng trên gương mặt đẫm lệ của Sasi chẳng khác nào như mặt trời
xuất hiện sau cơn mưa:
- Bạch Sư Phụ, con cần phải uống thuốc chăng?
Sri Yukteswar tỏ ra giàu lòng tha thứ:
- Nếu con muốn. Uống thuốc hay không cũng chẳng hại gì. Dẫu cho mặt trời mặt
trăng dời đi chỗ khác, con cũng không chết vì bệnh lao! Người nói thêm một cách
đột ngột. Bây giời con hãy đi đi kẻo có khi ta lại đổi ý.
Sasi kiếu từ và rút lui. Trong những tuần lễ sau đó, tôi đến thăm y nhiền lần và
lấy làm thất vọng mà sức khỏe của y càng ngày càng hao mòn.
- Sasi sẽ không qua khỏi đêm nay!
Lời tuyên bố của vị y sĩ và tình trạng nguy kịch của bạn tôi làm cho tôi phải
hối hả lên đường đến đạo viện. Sư Phụ lạnh lùng nghe lời báo cáo của tôi trong
khi tôi vừa nói vừa khóc vì xúc động.
- Tại sao con đến làm phiền ta như vậy? Ta há chẳng nói trước rằng Sasi sẽ khỏi
bệnh sao?
Tôi kính cẩn cúi đầu trước Sư Phụ và âm thầm rút lui. Sư Phụ không nói gì những
trầm mình trong im lặng, đôi mắt hé mở của người đang chiêm ngưỡng một cõi giới
xa xăm nào. Tôi trở lại nhà Sasi ở Calcutta ngay khi đó và lấy làm vô cùng ngạc
nhiên mà thấy bạn tôi đang ngồi tỉnh táo và uống sữa!
- Mukunda hỡi! Thật là kỳ diệu. Trong mấy tiếng đồng hồ qua, tôi cảm thấy trong
phòng có sự hiện diện của Sư Phụ, ngay tức khắc chứng bệnh tôi liền thuyên giảm
và biến tan đi mất. Tôi biết rằng chính nhờ Sư Phụ mà tôi được hoàn toàn bình
phục!
Chỉ trong vài tuần, Sasi đã lên cân và sức khỏe dồi dào hơn bao giờ hết. Những
sự khỏi bệnh của y lại có những hậu quả bất ngờ: y tỏ ra vô ơn bạc nghĩa, những
cuộc viếng thăm đạo viện của y cũng thưa thớt lần lần. Một ngày nọ bạn tôi tâm
sự với tôi rằng y cảm thấy hổ thẹn vì thái độ của mình đến nỗi y không dám đến
gặp Sri Yukteswar.
Việc ấy đưa tôi đến kết luận rằng chứng bệnh của Sasi có cái hậu quả bất ngờ là
làm cho y bị lệch lạc ý chí và không còn biết phép xử thế lịch sử ở đời!
Tôi thường bị xâm chiếm bởi những tư tưởng hoài nghi, vô thần. Tuy nhiên, một ý
nghĩ băng khoăn đôi khi cũng thoáng qua trong trí tôi: linh hồn có hay chăng
những tiềm năng chưa hề khai thác? Con người có lãng quên mục đích thật sự của
mình chăng khi họ không quan tâm đến vấn đề này?
Dijen Babu, một người bạn học cùng lớp, tâm sự với tôi như thế khi tôi mời y đến
viếng thăm đạo viện. Tôi bèn đáp:
- Sư Phụ Sri Yukteswar sẽ khai tâm cho anh theo pháp môn Kriya Yoga. Pháp môn
này sẽ làm lắng dịu những sự cuồng loạn của ảo vọng bằng một sự giác ngộ thiêng
liêng trong nội tâm.
Chiều hôm ấy, Dijen theo tôi đến đạo viện. Trước mặt Sư Phụ, bạn tôi cảm thấy
một niềm an lạc thâm trầm xâm chiếm lấy tâm hồn y, và từ đó y thường đến viếng
đạo viện luôn. Những điều lo lắng nhỏ nhạt của đời sống hằng ngày không đủ làm
thỏa mãn con người, trong tánh chất của y cũng còn có sự khát khao chân lý.
Trong những lời giảng huấn của Sri Yukteswar, Dijen nhận thấy một sự khích lệ
thúc đẩy y tì kiếm tận nơi thâm sâu bí ẩn của nội tâm cái Chân Ngã bất diệt,
khác hẳn với phàm ngã chật hẹp, ích kỷ của con người.
Dijen và tôi cùng theo học ban Cử Nhân tại trường Serampore College, trực thuộc
trường đại học Calcutta và thường có thói quen đến đạo viện ngay sau giờ học.
Sri Yukteswar thường nhìn thấy chúng tôi từ trên bao lơn từng lầu hai và tiếp
đón chúng tôi với một nụ cười.
Một hôm, Kanai, một đệ tử trẻ nội trú tại đạo viện, đợi chúng tôi ở ngoài cửa và
nói:
- Sư Phụ hôm nay vắng mặt, người có việc gấp phải đi Calcutta.
Ngày hôm sau, tôi nhận được một bử phiếu của Sư Phụ viết như sau: “Thầy sẽ rời
khỏi Calcutta sáng ngày thứ Tư, con và Dijen hãy đón Thầy ở ga Serampore trên
chuyến xe lửa 9 giờ.”
Sáng thứ Tư, vào lúc 8 giờ rưỡi, một thông điệp thần giao cách cảm của Sư Phụ đi
xuyên qua trí tôi: “Thầy mắc bận vào giờ chót, đừng đón chuyến xe 9 giờ.”
Tôi liền báo tin cho Dijen, y đã sửa sọan ra đi những nghe tin ấy thì nói với
giọng bất mãn.
- Anh cứ hay nói chuyện linh cảm với linh giác! Tôi chỉ tin những việc đó khi
nào có chữ viết của Sư Phụ.
Tôi nhún vai, lặng lẽ ngồi xuống và quyết định ở lại, Dijen vừa bước ra cửa vừa
nói lầm bầm và đóng sầm cánh cửa khi đi ra.
Trong phòng hơi u ám, tôi bèn đi đến chỗ cửa sổ trổ ra ngoài đường. Bỗng nhiên
ánh sáng dịu lúc ban mai đổi thành một thứ ánh sáng chói lòa trong đó cửa sổ
song sắt hoàn toàn biến mất dạng. Trên sàng gạch chói sáng, đứng sừng sững giữa
phòng chính là Sri Yukteswar bằng xương bằng thịt rõ ràng!
Bàng hoàng và vô cùng kinh ngạc, tôi thụp xuống dưới chân Sư Phụ và sờ nhẹ hai
bàn chân người để tỏ lòng tôn kính như thường lệ. Sư Phụ mang đôi giày bố màu da
cam, đến giày bằng da dừa; tôi nhận ra một cách rõ ràng đó là đôi giầy mà Sư Phụ
vẫn thường dung hằng ngày. Chiếc vạt áo màu vàng sậm của người phất qua đụng da
mặt tôi, tôi cảm xúc được không những cái vạt áo mà còn nhận thấy mặt nhám của
đôi giày bố và hai ngón chân cái cộm lên ở bên trong. Quá xúc động đến không thể
nói chuyện được, tôi chỉ có thể nhìn Sư Phụ bằng cặp mắt dọ hỏi:
- Thầy rất vui lòng mà thấy con nhận được bức thông điệp thần giao cách cảm của
Thầy.
Giọng nói của Sư Phụ vẫn bình thường không thay đổi.
- Thầy không thể hoàn tất mọi công việc kịp thời ở Calcutta và sẽ về đến
Serampore trên chuyến xe lửa 10 giờ.
Câm lặng vì ngạc nhiên, tôi vẫn tiếp tục nhình Sư Phụ. Sri Yukteswar nói tiếp:
- Không, đây không phải là một sự hiện hình, mà chính là Thầy bằng xương bằng
thịt. Thầy ban cho con cái kinh nghiệm hiếm có này do bởi Thiên Ý. Con hãy đợi
Thầy tại nhà ga, Dijen và con sẽ gặp Thầy cũng trong bộ áo Thầy đang mặc lúc
này, và đi trước Thầy có một thiếu nhi cầm một cái bình bằng bạc.
Sư Phụ bèn đặt hai bàn tay lên đầu tôi và nói thì thầm những lời ban ân huệ. Vừa
dứt lời thì tôi nghe một tiếng động đặt biệt. Thể xác của Sư Phụ từ từ tan rã
trong ánh sáng chói lòa. Hai bàn chân, rồi hai chân biến mất trước hết, kế đó
tới thân mình và đầu, cũng ví như một cuộn giấy bị cuốn tròn lại. Cho đến phút
chót, tôi cảm thấy sự đụng chạm nhẹ nhàng của những ngón tay luồn trong mái tóc
tôi. Trong giây lát, ánh sánh chói lọi lúc nãy đã lu mờ dần, tôi chỉ còn nhìn
thấy cái cửa sổ song sắt và những tia nắng mặt trời êm dịu.
Tôi chìm trong một cơn bàng hoàng như tỉnh như mê và tự hỏi phải chăng đó là một
cơn nắng quáng đèn lòa, khiến cho tôi nhìn thấy một ảo ảnh. Trong lúc đó, Dijen
mặt mày ngơ ngác bước vào gian phòng và nói:
- Sư Phụ không về trên chuyến xe 9 giờ, và luôn cả chuyến xe 9 rưỡi!
Bạn tôi nói câu đó dường như để xin lỗi.
- Anh hãy đi theo tôi! Tôi biết Sư Phụ sẽ về trên chuyến xe 10 giờ.
Tôi kéo Kijen đi theo tôi, hầu như cưỡng bách, mặc dù y không bằng lòng. Mười
phút sau chúng tôi đến nhà ga thì chuyến xe cũng vừa đến. Tôi kêu lên:
- Hào quang của Sư Phụ chói lòa khắp các toa xe lửa! Người đã về!
- Anh chỉ tưởng tượng! Dijen nói giọng châm biếm.
- Chúng ta hãy đợi ở đây.
Tôi diễn tả từng chi tiếh hình dáng của Sư Phụ khi người sẽ trở về. Tôi vừa nói
xong thì Sri Yukteswar đã xuất hiện với bộ áo vàng sậm mà tôi đã thấy từ lúc
nãy. Người đi chậm bước và theo sau một đứa trẻ nhỏ mang một cái bình bằng bạc.
Trong một lúc tôi cảm thấy lạnh mình vì kinh hãi trước sự kiện lạ lùng vừa xảy
ra. Cả một bầu thế giới quen thuộc của thế kỷ 20 duy vật dường như sụp đổ trước
đôi mắt ngạc nhiên của tôi, tôi tưởng chừng như sống thụt lùi trở lại thời kỳ mà
đức Jesus xuất hiện trước thánh Pierre trên bờ biển Galilée!
Khi Sri Yukteswar đi đến chỗ mà Dijen và tôi ngồi bàng hoàng và câm lặng vì kinh
sợ, Sư Phụ vừa mỉm cười vừa nói với người bạn tôi:
Ta cũng có gửi đến cho con một thông điệp, nhưng con không nhận được.
Dijen lặng thinh và nhìn tôi với một vẻ nghi ngờ. Sau khi đưa Sư Phụ về đạo
viện, chúng tôi đi đến trường đại học Serampore College. Dijen ngừng lại giữa
đường và nói với giọng bực tức:
- À, thì ra là như vậy! Sư Phụ có gửi thông điệp cho tôi! Tại sao anh dấu tôi?
Anh phải trả lời cho tôi rõ.
Có phải lỗi tại tôi chăng nếu tấm gương của linh hồn anh quá lu mờ nên không thể
phản chiếu những thông điệp của Sư Phụ?
Dijen liền bình tĩnh lại ngay và nói với một giọng đầy hối hận:
- Tôi hiểu anh muốn nói gì. Nhưng anh hãy giải thích do đâu mà anh biết trước có
một đứa trẻ nhỏ mang một cái bình bằng bạc?
Khi tôi vừa kể hết câu chuyện Sư Phụ xuất hiện một cách nhiệm mầu hồi lúc sáng
sớm, thì chúng tôi đã đến trước cửa trường Serapore. Dijen bèn kết luận:
Những gì tôi vừa được nghe về quyền năng của Sư Phụ làm cho tôi nghĩ rằng tất cả
những trường đại học của thế giới chỉ là những vườn chơi trẻ con!