HỒI BA MƯƠI CHÍN
DẠO ĐỊA NGỤC DÙNG KÌM KẸP MIỆNG DÙNG HÀM THIẾC ĐÓNG VÀO
RĂNG
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 23 tháng 9 năm Đinh Tỵ (1977)
Thơ:
Thánh môn linh lạc đạo nhân hi
Mạo phạm châm qui tức thị phi
Mặc mạc canh vân chung thọ ích
hạt xuy trường dịch khổ vô y.
Dịch:
Cửa thiền vắng vẻ ít người tu
Giới luật coi thường thích thị phi
Lẳng lặng cầy bừa sau có lợi
Cô đơn thổi sáo khổ thân mù.
Tế Phật: Cửa Thánh lạnh lẽo, tu sĩ ngày một ít, có kẻ lòng dạ giả dối, ngoài mặt
làm bộ tôn sùng nhưng trong bụng lại coi thường. Có kẻ miệng nói như trước chảy
thao thao bất tuyệt, nhưng miệng với lòng phản nghịch nhau như bèo trôi không
rỗ, căn cơ không thực, theo gió cuốn đi khó thành mạ cao, cây lớn. Cho nên hãy
cố gắng cày bừa, năm năm gặt hái được nhiều lúa, còn bọn mù ngồi thổi sáo một
mình chẳng có ai nghe! Tu đạo cần phải tu cho thành thực, lời Thánh có dạy:
"Tích thiện nhân gia, tất hữu dư khánh. Vi ác chi nhân, tất hữu dư ương" (Kẻ
tích thiện thì may mắn có dư, kẻ làm ác thì tai ương có thưa). Lưới trời ***g
lộng tuy thưa mà khó lọt. Nếu như nay biết thức tỉnh quay đầu lại thì còn có
đường nếu không gió thu thổi tới, lá vàng rơi lạnh lẽo sẽ không nơi nương tựa.
Khi ấy sân nhà vắng vẻ điêu linh, hoạn nạn sau này sẽ vô cùng. Hôm nay đã tới
giờ dạo âm ti, Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Thưa tại sao bữa nay ân sư lại uống rượu say ngất
ngưỡng, trong khi nói vẻ mặt lại không được vui vẻ.
Tế Phật: Nhìn thấu tim người đời, thấy mỗi kẻ đều cố tìm cách hưởng thụ vật
chất, chợt nhớ tới tam cương ngũ thường, lòng ta âm thầm đau xót. Do đó, nhấp
vài chung rượu đắng, sớm nay có rượu sớm nay say, để coi chúng sinh đoạ lạc, coi
Trời đất hỗn độn.
Dương Sinh: Ân sư thật là đã từ lại bi.
Tế Phật: Mau lên đài sen, rượu chẳng làm người say, người tự say, sắc chẳng
khiến người yêu, người tự yêu, tiền chẳng bắt người mê, người tự mê. Trâ,n gió
lớn thổi qua ta đã tỉnh, thôi thầy trò mình dạo âm phủ... Đã tới nơi, Dương Sinh
mau xuống đài sen.
Dương Sinh: Phía trước Ngục Quan đã tới nghinh tiếp. Kính chào Ngục Quan cùng
chư vị Tướng Quân, bữa nay tôi cùng ân sư Tế Phật tới quí ngục hỏi han tìm hiểu,
xin chỉ giáo nhiều cho.
Ngục Quan: Thôi miền lễ, mời đứng lên. Bản ngục là ngục chuyên dùng kìm kẹp
miệng, dùng hàm thiếc đóng vào răng. Khu văn thư ở Đệ Lục Điện đã tiếp được
chiếu văn nên được biết trước là Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh thuộc Thánh Hiền
Đường ở Đài Trung sẽ tới đây tham quan để viết sách Địa Ngục Du Ký. Xin thứ lỗi
vì sự tiếp đãi hai vị không được trọng thể.
Tế Phật: Xin Ngục Quan đừng khách sáo, thầy trò chúng tôi bữa nay phụng chỉ dạo
thăm địa ngục, hy vọng được giúp đỡ nhiều phương tiện.
Ngục Quan: Mời hai vị theo tôi vào trong quan sát.
Dương Sinh: Thấy tội hồn đông nhung nhúc trong nhà ngục, âm binh trừng trị tội
hồn bằng cách dùng sắt nướng đỏ áp vào miệng tội hồn, dùng kìm kẹp quả cầu sắt
đầy gai nhọn thọc vào miệng, lập tức máu tươi từ trong miệng trào ra, thân gục
xuống hôn mê.
Tế Phật: Miệng các tội hồn này chắc là cứng lắm cho nên phải dùng dùi sắt cậy,
rồi nong trái cầu sắt có gai nhọn vào khiến tội hồn có miệng mà khó nói, đau đớn
kêu chẳng thành lời.
Dương Sinh: Hình phạt này thật quá tàn nhẫn! Người đời chỉ hóc chút xương cá
trong cổ họng cũng đã vô cùng khổ sở, toàn thân không chịu thấu, mà nay lại dùng
trái cầu sắt có gai nhọn nhét vô miệng, thực là đau khổ, say đắng muôn phần,
chẳng thể nói nên lời. Xin hỏi Ngục Quan, những tội hồn này lúc tại thế đã phạm
phải những lỗi lầm gì mà sau khi chết xuống âm phủ lại phải chịu những hình phạt
này?
Ngục Quan: Phàm những kẻ tại thế ham cướp lời đoạt ý, ưa dùng lời đường mật dụ
dỗ tán tỉnh gái đẹp, thích dùng lời dối trá lừa gạt kẻ khác để lấy tiền lấy bạc,
ham hút cần sa ma tuý, trong lúc chuyện trò thường dùng lời châm chọc làm tổn
thương danh dự của kẻ khác thì sau khi chết khó thoát nổi hình phạt của địa ngục
dùng kìm kẹp miệng, dùng hàm thiếc đóng vào răng. Để tôi kêu vài tội hồn ra đây
cho nó khai rõ những tội ác đã phạm.
Tế Phật: Bọn này hôn mê bất tỉnh, để ta dùng quạt Bồ này quạt một quat. cho tỉnh
lại. Tướng Quân, mau moi trái cầu gai ra khỏi miệng chúng, còn không có miệng
cũng chẳng thể nói năng.
Tướng Quân: Đã moi trái cầu gai ra khỏi miệng chúng, xin Tế Phật định đọat.
Tế Phật: Các tội hồn hãy lắng nghe những lời khuyên dụ sau đây: Hôm nay ta dẫn
Dương Thiện Sinh là người phàm tới đây phỏng vấn để tìm hiểu rõ về tội phạm của
các ngươi, các ngươi phải thành thực thuật rõ lại lúc sống đã phạm phải những
tội thuộc về khẩu nghiệp ra sao, khiến sau khi chết phải đày đoạ tại ngục này?
Tội Hồn: Tôi lúc sinh tiền nói năng rất giỏi, giảng giải điều này lý nọ không
những ai nấy đều thích nghe mà còn khiến tai mắt họ chết mê chết mệt. Nhan sắc
tôi lại đẹp đẽ do đó sau khi lấy chồng vẫn còn lắm kẻ theo, một lần nọ có một kẻ
tha thiết ngỏ lời yêu tôi, tôi thấy hắn giàu có liền giả dối nói với hắn rằng:
"Chồng tôi đối xử với tôi tệ bạc, mong chàng đối xử tốt với tôi." Sau đó đi đến
ngoại tình. Do lời gian dối, do nhan sắc hấp dẫn của tôi, cộng thêm ba tấc lưỡi
khéo uốn éo, tôi đã ăn không của hắn một món tiền lớn, về sau ác ngôn ngày càng
gia tăng, mỗi câu nói đều bao hàm sự châm chọc khiến hắn vô cùng đau đớn tủi
nhục, cuối cùng không chịu thấu hắn liền tự tử. Sau khi chết hắn ôm hận xuống
tuyền đài tố cáo với Diêm Vương. Diêm Vương xét ra hắn cũng sai lầm mới bị sa
xuống hố. Còn tôi là phụ nữ mà tâm tính lại quá ác độc cho nên phải chịu quả
báo. Về sau hồn hắn thường laii vãng quấn quít bên tôi, khiến thân thể tôi không
được bình an. Trải qua bảy năm, vận suy khí nhược khiến phải chết. Hai kẻ cùng
tới đối chất tại Thành Thác Oan, hắn bị kết tội hiếu sắc gian dâm với vợ người,
còn tôi cũng bị xử nghiêm hình nơi các điện. Nay tôi bị giải tới điện này, Diện
Thành Vương kết án tôi đã dùng miệng lưỡi mê hoặc người, ám hại người, đâm người
nên phải tái thụ hình tại ngục dùng kìm kẹp miệng, dùng hàm thiếc đóng răng,
hàng ngày bị tọng sắt vào họng đau đớn vô chừng.
Tế Phật: Ngươi giả yêu vờ thương, bày tình trăng gió, miệng lưỡi giết người, sau
khi chết phải chịu tội này đáng lắm, đáng lắm chớ có oán than. Tội hồn thứ hai
hãy mau khai rõ tội phạm của mi.
Tội Hồn: Tôi lúc sống là dân không nhà cửa, thích hút sì ke chích ma tuý, đến
lúc nghiện ngập bèn trộm cấp đồ vật khắp nơi để kiếm tiền mua. Sau khi chết bị
phán đày tại ngục này, thống khổ chẳng thể thở than. Đã không được hút ma tuý
như lúc còn sống mà hàng ngày còn bị bắt nuốt những viên sắt tròn, bị đâm miệng
thật là thống khổ, hận lúc sinh tiền tôi đã không chịu học sống tốt lành.
Ngục Quan: Hút ma tuý thời gian thụ hình do bản ngục phán rất lâu mà những độc
tính không lui, do đó tội hồn không thể giải thoát để đầu thai được. Thế gian
còn nhiều kẻ thích hút ma tuý cùng nhiều loại thuốc cấm khác, luật thế gian đã
nghiêm nhặt, sau khi chết luật âm phủ càng thêm nặng, có kẻ bị đày thẳng xuống
ngục A Tỳ. Mong những ai phạm tội này mau cải hoá chớ dùng ma tuý làm hại linh
hồn cùng sinh mạng.
Tế Phật: Tội hồn thứ ba hãy mau khai rõ những ác nghiệp đã gây ra lúc còn tại
thế.
Tội Hồn: Tôi đọc nhiều sách, nhớ được nhiều thành ngữ, nên hay cướp lời đọat lý
của bạn bè, những điều nói ra đều là lời tà lý cong. Lại thường dùng lời nói của
thánh hiền để phỉ báng kẻ khác. Sau khi chết bị Diêm Vương phán: "Mi không dùng
lời nói của thánh hiền để hành thiện lại đem dùng để tranh biện một cách vô ích,
như thế là lộng ngôn, cái miệng mi cũng vậy cho mi nuốt đạn sắt có gai, hãy nếm
qua cho cái miệng và răng biết mùi vị." Bởi vậy hiện thời có miệng mà tôi không
nói được.
Tế Phật: Có lý thì đi khắp thiên hạ, không có lý một bước cũng khó đi. Người đời
nói năng cũng phải theo chân lý mà nói, như nói để giết người khiến đối phương
thiệt mạng, thì đó không phải là chính ta hại họ sao? Cho nên những điều nói đó
chỉ là tà lý. Ham lý luận tà lý, sau khi chết chắc chắn sẽ bị trừng phạt. Bây
giờ tội hồn thứ tư, cớ soa mi lại đày đoạ tại ngục này?
Tội Hồn: Lúc còn sống có rất nhiều tiền, vì ham lợi tức, phàm những ai cần dùng
tiền gắp hoặc những ai khốn khổ cần vay tiền của tôi, tôi đều cho vay nặng lãi,
vốn lời cốt sao gia tăng ngày một thật nhiều. Nếu đối phương không trả nổi tiền
vay thì tôi dùng bọn lưu manh trừng trị. Sau khi chết tôi bị Diêm Vương phán tội
tham lợi tức, hút máu của người, thâu tiền lời quá đáng bèn phạt tôi nuốt sắt
viên có giai, hiện thời quá thống khổ.
Ngục Quan: làm kẻ có tiền mà tim gan như đồng như sắt, chuyên môn lời cao để
thâu cho thật nhiều lời, mặc dù có sự thoả thuận của đối phương song tim ruột
quá cứng do đó ăn đồng nuốt sắt để hưởng thụ cái mùi vị phú quí bất nhân. Khuyên
những kẻ giàu có trên dương gian, nếu như có dư tiền cho ai vay thì không nên
thâu quá nhiều lời, chỉ nên lấy lời nhẹ để giúp đỡ người. Lấy việc giúp đỡ người
làm vui, tại sao không làm?
Tế Phật: Bữa nay thời giờ đã trễ, Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường.
Đa tạ Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân đã hậu đãi, xin cáo từ.
Ngục Quan: Lệnh cho các Tướng Quân hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Dương Sinh: Con đã chuẩn bị xong, kính mời ân sư trở lại Hiền Đường...
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI BỐN MƯƠI
DẠO ĐỊA NGỤC LƯỚI THÉP GAI ĐỈA ĐÓI VÀ CHÂU CHẤU
Phật Sống tế Công
Giáng ngày 9 tháng 10 năm Đinh Tỵ (1977)
Thơ:
Ỷ lan quyện cánh nhiều hồi lang
Thánh điển thanh tân hiển di hương
Khứ bại trần ai tiêu bách nghiệp
Phù sinh hà tất khổ bôn mang.
Dịch:
Chán tụa lan can lại dạo hiên
Điện thần hương ngất sạch vô biên
Đường trần thất bại tan cơ nghiệp
há khổ bôn ba cõi thế nhân.
Tế Phật: Thánh Hiền Đường vừa mới được dọn dẹp sửa sang trong ngoài sạch sẽ
trang nghiêm. Thần Tiên rất thích những nơi thanh tịnh. Chúng sinh muốn thấy
Thần Tiên thì trước hết phải gọt rửa tâm thân mình cho thật thanh tịnh, nếu
không huệ nhãn sẽ bị bụi trần che lấp, chẳng thể nào trông thấy tiên cảnh được.
Bữa nay chuẩn bị dạo âm ti, Dương Sinh mau sửa soạn lên đài sen.
Dương Sinh: Xin vâng lệnh. Thưa, bữa nay ân sư có vẻ vui mừng sảng khoái, không
rõ nguyên nhân bởi đâu đây?
Tế Phật: Tới Thánh Hiền Dường là chốn thanh tịnh, ta thấy Thánh điện không dính
một mảy bụi trần, cho nên nỗi âu lo tan biến.
Dương Sinh: Người đời thường nói "bất kiến vi thanh tịnh" (Mắt không nhìn thấy
là thanh tịnh) ý của ân sư thế nào?
Tế Phật: Chỉ có Tiên Phật mắt không cần nhìn mà trí vẫn thông suốt thôi, còn
phàm nhân chẳng thể như thế được. Cho là mắt không nhìn thấy rồi chẳng kiên cữ
sự ô uế, hành động tà tâm laọn đức trong chốn tối tăm rồi nói không nhìn thấy
tức là thanh tịnh được ư?
Dương Sinh: Ân sư nói rất chí lý, con đã sữa soạn xong, mời ân sư lên đường...
Tế Phật: Đã đến nơi, mau xuống đài sen.
Dương Sinh: Bữa nay mình tới đây sao chỉ thấy âm binh áp giải tội hồn đi, không
hề nghe tiếng kêu khóc bị hành tội gì hết.
Tế Phật: Hôm nay chúng ta tới thăm Ngục Lưới Gai Sắt Dùi Cào Cào, ngục này tội
hồn chịu những hình phạt thống khổ không cùng, do đó chỉ âm thầm rên xiết thôi.
Con hãy đợi, lát nữa sẽ rõ mọi sự. Đã tới gần cửa ngục, Ngục Quan cùng Tướng
Quân đang chờ đón chúng ta.
Dương Sinh: Xin vái chào Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân, bữa nay tôi cùng ân
sư Phật sống tới thăm quí ngục cùng hỏi han sự tình, xin quí ngục giúp đỡ tôi
phương tiện.
Ngục Quan: Bản ngục là Địa Ngục Lưới Gai Sắt Dùi Cào Cào thuộc Lục Điện do Biện
Thành Vương cai quản. Nay Đài Trung Thánh Hiền Đường phát huy đạo giáo, công đức
sâu dầy, giờ đây lại phụng chỉ viết sách Địa Ngục Du Ký, tiết lộ tình hình ở âm
phủ để khuyên đời độ người, sự khó nhọc thật đáng kính phục, bản ngục cũng được
tả vào sách vàng, thật quá vinh hạnh. Kính mời hai vị vao trong tham quan.
Dương Sinh: Đa tạ Ngục Quan đã kỹ càng chỉ giáo cho tôi. A! Trong ngục dùng toàn
lưới sắt kết gai thép nhọn y hệt hàng rào dây kẽm gai ở trên trần. Dưới hầm ngập
nước đã rào một tầng, trên mặt đất caòn rào thêm tầng nữa, khiến tội hồn không
đứng lên nổi, phải bò sát đất mới di chuyển nổi, mỗi khi ngẩng đầu lên liền bị
gai sắt đâm đau đớn. Các tội hồn rên xiết không ngớt, quần áo họ rách nát tả
tơi, trên mình họ còn đeo theo hai vật gì, vì tôi đứng cách khá xa nên nhìn
không rõ vật đó, xin Ngục Quan nói cho tôi hiểu được chăng?
Ngục Quan: Hai vật đó, một là sâu bọ hai là đỉa đói chuyên hút máu mủ và nước óc
trong đầu người để sống.
Tế Phật: hãy đi tới để thấy rõ ràng hơn.
Dương Sinh: Đúng đúng, ối cha! Thì ra toàn thân tội hồn bị đỉa đói theo, hình
cảnh này mọi người đều kinh hãi. Trên đầu tội nhân sâu bọ lại bu kín. Không hiểu
bu như vậy là chúng ăn được những gì?
Tế Phật: Đỉa đói còn gọi là mã hoàng kỳ thường sống vào vũng bùn lầy, khi đã bám
được vào người ta hút hết máu tươi nên người đời cũng sợ. Con hoàng trùng là một
laọi sâu bọ chuyên phá hoại mùa màng, chúng thường bay hàng đàn thấy lúa thì sà
xuống ăn cho bằng sạch. Ở đây hoàng trùng bu kín đầu là để hút cạn nước trong óc
tội hồn.
Ngục Quan: hoàng trùng chuyên hút sữa trong hạt lúa còn non. Bữa nay ở âm phủ
chúng hút nước óc trắng **c của tội hồn trông giống hệt như nước sữa trong hạt
lúa non vậy.
Dương Sinh: Hiện thời tôi sợ quá, nhìn cảnh này lòng bàng hoàng, chân tay bủn
rủn muốn ngất xỉu.
Tế Phật: Chớ kinh hãi, mình dạo âm phủ để viết sách, vốn phụng chỉ mà tới, có ta
bên cạnh, hãy can đảm lên.
Ngục Quan: Xin hai vị hãy đợi một chút, tôi sẽ kêu thêm vài tên tội hồn nữa ra
đây để chúng thuật lại những bằng chứng xác thực của các tội đã phạm.
Dương Sinh: Đa tạ Ngục Quan, nhưng trên thân tội hồn đỉa đói lại bám đầy khiến
tôi sợ hãi quá.
Ngục Quan: Đúng đúng, nhưng hai loại trùng này đã bị trừ sạch, Dương Thiện Sinh
chớ sợ hãi. Tôi ra lệnh cho hai tội hồn cung khai những tội ác đã làm lúc sinh
tiền khiến sau khi chết phải tới đây thọ hình. Phật Sống Tế Công cùng Dương
Thiện Sinh đến âm phủ cốt để tìm hiểu, vậy các tội hồn hãy thành thực cung khai
hầu khuyến hoá thế nhân.
Tội Hồn: Lúc sống tôi làm quan toà chuyên xử những vụ kiện ttụng, mỗi khi được
bị cáo lo lót tiền bạc tôi đều xử một cách bất công. Do đó đã xử oan nhiều người
cùng phá huỷ công lý của luật pháp đi. Tôi đà kiếm được quá nhiều tiền trong lúc
sống, tuy rằng tôi vẫn thường nghe nói làm quan toà mà tham tiền không ngay
thẳng, thì sau khi chết sẽ bị báo ứng. Cũng có lúc tôi nghĩ đời này chỉ cần vinh
hoa, phú quí, quyền cao chức trọng nhưng rồi đời sau sẽ ra sao đây? Sau khi
chết, tôi tới đứng trước đài gương soi ác nghiệp, những hành vi nhãn tiền hối
lộ, những lời kết án bất chính đều hiển hiện rõ ràng như trên màn ảnh vậy. Tội
lỗi đã rõ ràng nên tôi phải lãnh hình phạt giam tại ngục Bùn Phân Nước Tiểu, sau
đó lại bị giải giao qua Lục Điện. Biện Thành Vương mắng tôi là làm quan toà biết
luật pháp, nắm giữ cán cân công lý mà còn bất công. Vì phạm vào tội đại ác cho
nên tội đã bị xử đày tại ngục Lưới Thép Gai để cho sâu bọ **c khoét mà chịu khổ.
Hàng ngày phải bò để lưới thép gai phía trên đâm nát thân, bị đỉa đói sâu bọ hút
máu mủ, tuỷ óc. Toàn thân nhức nhối đau buốt, nguyên khí trong người bị hút hết,
thật là đau khổ không thể nào tả xiết.
Ngục Quan: Đã hiểu pháp luật lại còn phạm pháp, thật là không còn pháp luật,
không còn trời. Mong kẻ nắm giữ pháp luật ở thế gian phải học tác phong nghiêm
minh công chính của Bao Công, hành xử đạt mức không quá đáng, không bất cập, vì
xã họi trừ gian dẹp tệ, thế thiên hành đạo, công đức vô lượng. Nếu như không
theo đúng qui luật của công lý, vì tự lợi mà thất tiết, tham lam mưu cầu hối lộ,
sau khi chết xuống địa ngục ắt bị nghiêm hình sửa trị, ngoài ra còn liên luy đến
cả con cháu đời sau bị đày ải điêu linh không dứt. Gương sáng ngàn xưa, báo ứng
đều rất chí công. hai tội hồn hãy mau thuật lại những hành vi bất chính lúc còn
tại thế.
Tội Hồn: Tôi lúc sống thân thể cường tráng khoẻ mạnh, thường bảo vệ các sòng bài
cùng chốn ăn chơi, chiếm cứ một khu đất trống lấy huê lợi để sống. Cuộc đời trải
qua những ngày sung sướng, từ sự ăn nhậu những của món ngon vật lạ cùng các thú
vui chơi không thứ gì là không từng được hưởng. Có ngờ đâu sau khi chết bị Diêm
Vương phán đày tại ngục này, Hiện trời quá đau đớn khổ sở không gì sánh nổi,
thực muôn phần thê thảm!
Tế Phật: Phàm những kẻ không dùng nghề nghiệp chính để sinh nhai lại đi thâu lợi
tức là hút máu huyết của kẻ khác thì sau khi chết đều phải tới đây để chịu tội,
mong người đời mau tỉnh ngộ. Thời giờ đã trễ, Dương Sinh chuẩn bị trở lại Hiền
Đường.
Dương Sinh: Cảm tạ Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân đã tiếp đãi quá nồng hậu, vì
đã tới giờ chúng tôi xin cáo từ.
Ngục Quan: Lệnh các Tướng Quân hàng ngũ chỉnh tề tiễn khách.
Dương Sinh: Thưa con đã chuẩn bị xong, xin ân sư trở lại Hiền Đường.
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI BỐN MƯƠI MỐT
DẠO MIẾU THÀNH HOÀNG XEM NGƯỜI CHẾT QUA ĐỜI
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 29 tháng 10 năm Đinh Tỵ (1977)
Thơ:
Thế sự phân phân chúc ảnh vi
Hàn lưu tối phạ vũ phi phi
Thân tình nhất đán trường tương biệt
Mộng lý tần hô bất đắc qui.
Dịch:
Sự đời hư ảo tựa đèn loà
Đã hãi lạnh tràn lại sợ mưa
Một sớm người thân chia mấy ngã
Trong mơ réo gọi chẳng quay về.
Tế Phật: Nhân Hoàng Văn Đạt chồng nàng Lai Sanh Khoan là tín hữu của quí đường
vừa thác trưa hôm nay đã khiến ta động lòng thương cảm cho cuộc sống của con
người thật là quá ngắn ngủi. Mọi việc ở đời há cần phải sử dụng mưu chuốc ? ba
tấc khí hít thở Trời ban cho để dùng, một sớm đổi thay mọi sự chấm dứt. Tiền
bạc, con cháu có còn không? Nhà cửa phòng ốc chỉ là mượn đỡ của con cháu tạm trú
ít ngày, rồi sau khi thác chúng đem chôn nơi sườn núi hay bãi hoang động vắng,
khi tới đó thì thử hỏi còn được những gì?
Dương Sinh: Bạch ân sư, sau khi thác thì Hoàng tiên sinh sẽ vãng sinh cõi nào?
Tế Phật: Đường đi mờ mịt, năm tháng âm u, đó là chỗ mà người đời ai ai cũng phải
phải đi tới. Mình nay viết sách Địa Ngục Du Ký chính là làm cái công việc tiết
lộ những bí mật sau khi chết vậy.
Dương Sinh: Thật quá hay, đó là một vấn đề lớn, người đời chỉ biết là sau khi
chết thì phải xuống địa ngục, còn không rõ cái cảnh tượng đó ra sao, kính xin ân
sư giảng giải rõ rành rành mạch cho.
Tế Phật: Có thể được, con hãy lên đài sen, ta sẽ chỉ dẫn cho con được tỏ tường.
Dương Sinh: Con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường...
Tế Phật: Đã tới nơi, mau xuống đài sen.
Dương Sinh: Chốn này con đã từng qua lại.
v Đúng đấy, con hãy nhìn thi hài Hoàng Văn Đạt đặt nằm trên linh sàng, phía
trước là ban tụng niệm của Thánh Hiền Đường, đang chuẩn bị tụng kinh cầu hồn.
Con cái Hoàng Văn Đạt đều lộ vẻ đau khổ khôn cùng.
Dương Sinh: Thưa tại sao chỉ nhìn thấy nhục thể, không nhìn thấy linh hồn?
Tế Phật: Con hãy mau lên đài sen, ta sẽ đem con tới miếu Thành Hoàng để xem kết
quả.
Dương Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, mời ân sư lên đường...
Tế Phật: Đã tới.
Dương Sinh: Miếu Thành Hoàng người tụ tập đông, binh mã đi đi lại lại, cảnh này
người phàm chẳng thể nhìn thấy được.
Tế Phật: Mình hãy vào trong lễ ra mắt Thành Hoàng.
Thành Hoàng: Hoan nghênh Phật Sống Tế Công cùng Dương Thiện Sinh, có điều chi
cần chỉ giáo khiến Phật Sống phải lao nhọc thân hành tới đây.
Tế Phật: Nhân đấng phu quân của vị nữ phó chủ Thánh Hiền Đường qua đời, lại nhân
bản đường phụng chỉ viết sách Dịa Ngục Du Ký để giải bày tình cảnh sau khi người
ta chết ra sao? Do đó chúng tôi mới đặc biệt tới đây tìm hiểu.
Thành Hoàng: Hoan nghênh, hoan nghênh, mời hai vị hãy ngồi nghỉ mệt, Tướng Quân
đâu hãy mau dâng trà.
Tướng Quân: Xin tuân lệnh... Mời nhị vị dùng trà.
Dương Sinh: Đa tạ, xin hỏi Thành Hoàng, quí điện chuyên lo phần vụ gì?
Thành Hoàng: bản điện là Đài Trung Thành Hoàng, cai quản phàm nhân ở Trung Thị,
phụ trách kiểm soát các nghiệp vụ. Người đời phần lớn không rõ chức vụ của Thành
Hoàng, Thành Hoàng giống như cảnh sát cuộc trên dương gian, chuyên môn phụ trách
cảnh cáo ngăn ngừa cùng theo dõi quan sát những hành động của thế nhân. Phúc Đức
Chính Thần Miếu cũng phụ trách một công tác nhưng Thành Hoàng chủ quản, chia
trên dưới phụ trách. Phàm người đời tới lúc tuổi thọ hết thì âm binh cõi âm được
lệnh tới họp tại bản điện, sau đó cùng tới chỗ Phúc Dức Chính Thần nơi bản đường
rồi hội đồng mới tới nhà phàm nhân dẫn người đi.
Dương Sinh: Tôi còn nhiều nghi vấn muốn được Thành Hoàng chỉ dạy, như việc âm
binh đối xử với người thiện kẻ ác khi tới dẫn họ đi thì cách thức ra sao?
Thành Hoàng: Như âm sai Tướng Quân Ngưu Mã hay quỉ sứ vô thường Hắc bạch, mỗi
khi tới nhà người thiện chỉ cần vỗ một cái vào mình người phàm, khiến họ thất
thần hôn mê rồi dẫn đi. Còn đối với kẻ ác thì dùng tay tra khảo đnáh đập hoặc
cột trói giống như trên dương gian khi bắt kẻ phạm tội vậy. Sau đó dẫn giải tới
miếu Thành Hoàng để khai báo tên tuổi cùng lý lịch để ghi vào sổ bộ quỉ.
Dương Sinh: Còn người lương thiện cùng tu đạo không được ưu đãi gì sao?
Thành Hoàng: Có chứ, nếu tại thế mà làm nhiều việc thiện, tích được nhiều công
nơi âm phủ thì âm binh chỉ tới miếu Thành Hoàng cho biết lệnh triệu người, sau
đó Phúc Thần sẽ đích thân dẫn về âm phủ. Nếu như người có công lao lớn đối với
đạo, được nhiều tín hữu tôn làm ân sư, xuống địa ngục được lo liệu các việc hoặc
tới Tiêu Dương Quan để khảo nghiệm. Còn người đã chứng đạo được dẫn thẳng lên
trời.
Dương Sinh: Thưa tín ngưỡng tôn giáo khác nhau thì phương thức về trời có khác
không?
Thành Hoàng: Tôn giáo tuy có bất đồng nhưng cái lý đoạ thì là một, muốn siêu
thăng thượng giới ắt tại thế phải thực hành được trung đạo, bất thiên bất chấp.
Còn không hành trình thăng thiên của họ sẽ gặp trở ngại, chẳng kể thực hiện được
tự do.
Tế Phật: Thành Hoàng nói rất đúng, thế nhân tu đạo tối kỵ cố chấp, bài xích công
kích và tự cao. Nếu như phạm vào những điều đó thì tâm trở thành động loạn, hiếu
thắng mất quân bình sẽ bị đày xuống địa ngục để rèn luyện lại.
Dương Sinh: Xin hỏi Thành Hoàng hồn Hoàng tiên sinh hiện giờ ở đâu?
Thành Hoàng: Để tôi dẫn vô trong sẽ thấy.
Dương Sinh: Hoàng tiên sinh đang ngồi trong một căn nhà thiết trí giống như một
giáo đường, chỉ có năm sáu người ở trong. Tiên sinh ngồi trên ghế hướng về Dương
Sinh gật đầu chào, không rõ tôi có thể đàm đạo với tiên sinh được không?
Thành Hoàng: Được lắm.
Dương Sinh: Hoàng tiên sinh, ông khoẻ chứ?
Hồn Hoàng: Cảm ơn bạn đã có lòng nhớ tới tôi, ối chao ôi! Ôi chao ôi!...
Dương Sinh: Hoàng tiên sinh, lúc này chỉ còn biết nhỏ lệ ngơ ngẩn nhìn tôi,
chẳng nói được lời nào.
Tế Phật: Văn Đạt! Ngươi chớ bi thương, con cái đã trưởng thành, lại đều có vợ
hiền con thảo, cớ sao còn quá lo lắng như vậy?
Dương Sinh: Hoàng tiên sinh nghe xong khóc càng dữ hơn.
Tế Phật: hãy nhìn lại xem, đời người như khách qua đường, chỉ dạo qua coi cho
biết, chớ sao lại quyến luyến quá đổi như vậy?
hồn Hoàng: Đa tạ Phật Sống Tế Công đã khuyên giải, tôi hy vọng ngài có thể thay
thế tôi mà dạy dỗ con cháu tôi để chúng ngoan ngoãn tu đạo, luôn tới Thánh Hiền
Đường công quả. Còn nay tôi đã lìa đời, nhân được vợ tôi tên Khoan có nhiều âm
đức, cho nên Phúc Thần cùng Thành Hoàng mới lấy lễ mà đối xử với tôi, song lòng
tôi vẫn còn sầu tủi...
Dương Sinh: Xin Hoàng tiên sinh hãy bình tỉnh lại đi, Tế Phật cũng đã nói nhiều
tồi. Đường trần tuy hết song thánh đạo vẫn còn có thể hành, chớ quá buồn rầu.
Hồn Hoàng: Chỉ tiếc lúc sinh tiền không tới Thánh Hiền Đường công quả cho thật
nhiều. Ôi! Đa tạ Dương Sinh cùng các tín hữu nhân đức của Thánh Hiền Đường đã có
lòng nhớ tới tôi...
Tế Phật: Vì thời giờ có hạn, chẳng được nói nhiều, chúng tôi còn phải tới Biện
Công Sảnh để hỏi han thêm.
Thành Hoàng: Mời hai vị tới Biện Công Sảnh phía trước đàm đạo... mời ngồi, Dương
Thiện Sinh còn có nghi vấn nào không?
Dương Sinh: Đối với tình cảnh của mỗi người chết, người ta từng hỏi tôi nhiều
câu hỏi mà tôi chưa trả lời được, vậy mong Thành Hoàng chỉ giáo cho tôi.
Thành Hoàng: Chớ khách sáo, có những nghi vấn gì cứ việc hỏi, lại có cả Tế Phật
ở đây, nếu như có điều chi không rõ, ngài cũng có thể giải thích cho.
Dương Sinh: Kẻ chết sau khi hồn phách rời bỏ xác thân thì sẽ ra sao?
Thành Hoàng: Đa số người chết đều có triệu chứng báo trước, sau đó mới ngã bệnh.
Nếu như số đã tới lúc chết thì chẳng khác nào cây sắp đổ, trước tiên lá úa vàng
rồi rụng, thân khô mục gặp trận gió lớn đổ xuống. Người ta lúc sinh âm phủ đã
ghi vào sổ bộ, sổ bộ của người cùng giống như một cái cậy nên luôn luôn hiện rõ
ở chốn âm phủ, nếu như khi sinh mệnh của người đời sắp hết, quan viên âm phủ cứ
việc mở sổ bộ sinh tử ra coi. Khi tới giờ thì quỉ Vô Thường sẽ lên dương thế
triệu kẻ đó đi. Lúc quỉ Vô Thường tới ắt cây khô mục đổ và được gọi là tử vong.
Hồn phách nhập vào thân xác người ta ít chục năm như cây tiếp cành, nay rời bỏ
thể xác thì như cành cây lột vỏ, như con rùa lột xác, cảm thấy rất đau khổ. Xem
tình cảnh lúc chết chẳng ai giống ai, có người nghiến răng cắn lợi, phùng má
trợn mắt, vẻ mặt hoàn toàn đổi khác, đó là tình trạng của kẻ gian truân khổ hận,
nguyên nhân đều do nghiệp chướng quá nặng, cho nên giờ phút lâm chung mới ngang
trái như vậy. Còn nếu vẻ mặt bình thản giống như nằm ngủ thì sống cũng như khi
chết hồn phách đều được an lành. Lúc chết mà vẻ mặt thản nhiên tức là cái tâm
thiện đức được biểu lộ ra.
Tế Phật: Người ta có khi ngừng hô hấp chưa hẳn là đã chết. Cứ lấy bình điện làm
tỷ dụ, nếu đốt đèn mà đèn không cháy thì chưa hẳn là điện năng trong bình hết
sạch, mà chỉ vì quá yếu cho nên không thể phát quang được. Con người khi đình
chỉ hô hấp nếu ở trạng thái ngừng nghỉ hạn chế thì hồn phách hay thần thức lúc
đó chưa hoàn toàn thoát ra, hơi thở lúc dó mong manh như dây tơ. Vì chấp trước
cái ngã tướng của mình cho nên bị ràng buộc níu kéo. Người chết mà tâm chưa
chết, như ảo mộng tri giác đều tỏ tường, có điều có miệng mà không nói được.
Trong giờ khắc đó, con cháu nên khuyên bảo, an ủy, nói nhỏ nhẹ bên tai người
chết là: "Nên buông bỏ phàm tâm đi, bỏ hết tất cả mọi dây tình trần thế, chỉ
nghĩ tới việc thiện ngoài ra không nên nghĩ gì khác nữa". Có như vậy mới mong
giúp đỡ được cho kẻ đó yên tâm trên đoạn đường xuống suối vàng, tránh được sự
lưu luyến, thoát được sự khổ đau. Nếu người tin được sự khổ đau. Nếu người tin
Phật thì niệm Nam Mô A Di Đà Phật, tin đạo thì niệm Thánh hiệu Thái Ất Cứu Khổ
Thiên Tôn. Cứ tuỳ theo tín ngưỡng mà niệm, vì Tiên Phật Thánh đều ở trên trời
cả, nếu tụng niệm như vậy thì đều khiến cho linh hồn kẻ quá vãng được phiêu diêu
an lạc, không còn sợ hãi con đường xuống suối vàng, bỡi vì người chết lúc này
tâm thần hoảng hốt như người đi đêm vậy, nếu lấy Tiên Phật Thánh hiệu mà hô to
kêu lớn thì có thể giúp kẻ chết thêm đảm lược, khí nguyên linh đã được ổn định
thì linh hồn hẳn là bớt đau khở. Trong thời gian cư tang thì con trai con gái
trên dương thế nên trai giới, giữ mình cho thanh tịnh sạch sẽ, cấm rượu thịt,
dâm dục để có thể nhờ Thành Hoàng tâu với Minh Vương thì sẽ được giảm khinh
những tội phạm lúc sinh tiền. Điểm này con cháu không thể coi thường được, đó
cũng là phương cách để báo đền ơn đức cho cha mẹ. Bữa nay đã tới giờ, chúng tôi
phải sửa soạn để trở lại Hiền Đường.
Dương Sinh: Xin ân sư hãy khoan một chút. Không rõ Hoàng tiên sinh sẽ tới đâu?
Thành Hoàng: Vì thụ lãnh lời tâu quí giá của Văn Hoàng Thánh Đế thuộc Thánh Hiền
Đường nên hồn nhập âm phủ, bữa sau sẽ căn cứ theo công trạng và lỗi lầm mà xét
xử.
Tế Phật: Đối với việc này Dương Sinh chớ hỏi nhiều, tình trạng vẫn còn trong
vòng giữ kín. Hãy chuẩn bị trở lại Hiền Đường.
Thành Hoàng: Ra Lệnh cho các vị Tướng Quân hàng ngũ chỉnh tề để đưa tiễn khách.
Dương Sinh: Xin đa tạ Thành Hoàng. Kính mời ân sư trở lại Hiền Đường.
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI BỐN MƯƠI HAI
DẠO ĐIỆN THỨ BẢY GẶP GỠ THÁI SƠN VƯƠNG THĂM NGỤC NÓNG BỎNG NÃO NỀ
Phật Sống Tế Cong
Giáng ngày 16 tháng 11 năm Đinh Tỵ (1977)
Thơ:
Ngọc Lịch bửu sao khuyến thế nhân
Kỳ thư phụng mệnh tái phiên tân
Nhân duyên tảo chủng thành kim nhật
Thuyết pháp tuỳ cơ tối bức nhân.
Dịch:
Kinh quí chép ghi dạy dỗ người
Sách hay vâng soạn mới tinh khôi
Nhân duyên gieo gióng nay thành quả
Chân lý tuỳ cơ hướng dẫn đời.
Tế Phật: Ngày xưa ở Đông Thổ có lưu truyền rằng sách Ngọc Lịch là một công trình
sao chép quí giá, một áng văn tải đạo cốt để răn đời. Trong đó có nói về vị đạo
sĩ Đạm Si Tôn Giả phụng mệnh thiên Dế xuất hồn dạo thăm các điện ở địa ngục,
thấy tận mắt cảnh Diêm Vương trừng phạt các tội hồn, sau khi trở lại trần gian
đã viết lại vào sách đó một cách hết sức trung thực, lưu truyền khắp chốn. Đọc
xong những người bỏ ác theo thiện, ấn tống sách ấy rất nhiều; kẻ nào tâm cảm ứng
được, sự chứng nghiệm lại càng hết sức rõ ràng. Tuy theo tình thế thay đổi ở
dương gian mà hình phạt ở địa ngục đổi mới để thích nghi với mọi hoàn cảnh mà
khuyến hoá bến mê. Thiên Đế đặc tuyển Dương Thiện Sinh thuộc Thánh Hiền Đường
Đài Trung ở Đài Loan nằm dưới quyền cai quản của Nam Thiên Bộ Châu dạo thăm địa
ngục để thâu lượm những bằng chứng mới, dùng phương thức xuất hồn, dùng sa bàn
truyền hình ảnh từ âm phủ về dương gian, rất là tân kỳ đáng tin. Sách Địa Ngục
Du Ký đã vận dụng sử cảm ứng mà sáng tác dùng để thay thế sách Ngọc Lịch là một
áng văn khuyên đời vô cùng quý giá, một cuống sách đã làm thay đổi được thế
gian, chính vi nhân duyên ngàn năm đã nhuần nhuyển, cho nên chúng sinh trong
thiên hạ rất ít người quí chuộng sách này, nó như bức tường lớn vì vậy nếu ấn
tống quảng bá rộng rãi thì sẽ được hưởng hồng ân tai qua nạn khỏi, chuyển kiếp
thăng trầm, đường đời sẽ bước thong dong. Sách này không chỉ tiết lộ guồng máy ở
địa ngục mà còn khai mở những ai chăm chỉ đọc đi đọc lại có thể giác ngộ hay
thành đạo. Ai ấn tống để khuyên đời thì cầu nguyện điều gì cũng được như ý, lại
còn miễn giảm được tội lỗi đã phạm, quả là một bản phúc âm để sám hối quá khứ,
tu sửa tương lai. Bữa nay chuẩn bị dạo địa ngục, Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh: Xin tuân lênh,con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đã tới nơi, mau xuống đài sen.
Dương Sinh: Thưa, bữa nay tới đâu đây?
Tế Phật: Con hãy nhìn phía trước là Đệ Thất Điện, Thái SƠn Vương đã đứng dậy,
mau tới trước làm lễ ra mắt.
Minh Vương: Cung kính đón chào Phật Sống Tế Công cùng Dương Thiện Sinh thuộc
Thánh HIền Đường tới thăm. Xin mời vô trong nghỉ ngơi.
Dương Sinh: Đa tạ Thái Sơn Vương, bữa nay tới viếng thăm Đệ Thất Điện được thấy
bá quan văn võ hàng ngũ chỉnh tề tiếp đón, chúng tôi cảm thấy thật quá vinh hạnh
. Trước điện tội hồn bị âm binh áp giải tới khá đông, hiện thời Minh Vương mải
tiếp chúng tôi nên đình chỉ việc xử án.
Minh Vương: Hai vị không quản gian lao, thân hành xuống thăm âm phủ để viếc sách
thực quá khổ cực. Mời ngồi, lệnh Tướng Quân mau dâng trà tiên.
Tướng Quân: Xin tuân lệnh... Kính mời hai vị Tiên Trưởng dùng trà.
Dương Sinh: Minh Vương hậu đãi chúng tôi thật quá cảm kích.
Minh Vương: Không có chi. Đương lúc thế đạo suy đồi, may mắn thánh giáo phục
hưng ở Đài Loan, Tiên Phật hiển linh thuyết pháp răn đời, tránh được cơn sóng
dữ, công đó quá cao sâu. Việc phụng chỉ soạn sách Địa Ngục Du Ký là mệnh trời
sắp đặt, thiện duyên thật quá lạ lùng. Bữa nay hai vị mới tới kể cũng hơi trễ.
Tế Phật: Xin đa tạ những điều Thái Sơn Vương vừa chỉ giáo. Vì cùng một lòng cứu
đời nên bữa nay chúng tôi mới tới quý điện, xin rộng lòng giúp đỡ, mong được chỉ
dạy cặn kẻ về nghĩa đạo cao sâu chân chính.
Minh Vương: Hay lắm, người đời sau khi chết được 49 ngày, thân quyến đều lo cúng
lễ, đọc kinh siêu độ để cầu cho vong linh siêu thăng, bởi lẽ tới ngày thứ bảy
thì hồn người chết tới điện số 1, ngày thứ 14 hồn tới điện số 2, ngày thứ 21 hồn
tới điện số 3, ngày thứ 28 hờn tới điện số 4, ngày thứ 35 hồn tới điện số 5,
ngày thứ 42 hồn tới điện số 6, ngày thứ 49 hồn tới điện số 7. Người đời có thói
quen lấy 7 ngày làm một tuần lễ để cúng bái mà thôi, còn chẳng rõ các vong hồn
phần lớn lúc còn sống chuốc lấy tội lỗi đầy mình cho nên phải mất 49 ngày mới có
thể đi qua hết 7 điện. Rồi sau đó lại còn trải qua thêm các điện số 8, số 9, số
10 xong mới đầu thai cõi khác. Cho nên việc cúng bái sau khi chết không thể
giống như việc làm lành lúc còn sống. Lúc sống nếu như biết tu nhân tích đức,
sau khi chết ắt được Phúc Thần dẫn đường, chẳng cần cúng bái vẫn có thể đi đây
đi đó tự do. Trái lại, dù cho có mời thầy pháp tài giỏi tới cúng bái linh đình
cũng chẳng thể thoát khỏi cửa địa ngục điểm này mong mỏi người đời nhớ cho.
Dương Sinh: Người đời nói 49 ngày mà không nói 56 ngày, 63 ngày hoặc 70 ngày là
tại sao?
Ngục Quan: Từ điện số 2 tới điện thứ 7 là các điện chủ yếu ở âm phủ, còn từ điện
thứ 8 trở đi chỉ là xử phạt các tội còn lại của những tội còn lại của những tội
hồn vì phạm quá nhiều tội lỗi. Do đó, có những trường hợp đã qua khỏi các cửa
ngục thuộc 49 mà vẫn còn phải chịu thêm các tội khác ở các địa ngục kế tiếp.
Người đời vì có lòng nghĩ tới tổ tiên cho nên mới dựng đàn tràng cầu siêu để cho
vong hồn thoát khỏi các cửa ngục ở các điện. Lòng hiếu thảo đó thật là khả kính,
tuy nhiên nếu lúc còn sống mà biết chăm lo vuun bồi lòng nhân từ mới thiết thực
hơn.
Tế Phật: Người ta sau khi chết trong thời gian còn đang chờ phán xét các tội đã
phạm hoặc trước lúc được phép đầu thai, đạo Nho gọi là lình hồn hay quỉ hồn.
Trong lúc chờ đầu thai chuyển kiếp thì cái thân ở âm phủ mà Phật gọi là thân ở
cõi âm. Muốn độ linh hồn ra khỏi chốn khổ đau, đời sau ắt phải chăm lo thực hành
điều thiện đức khiến Minh Vương cũng phải động lòng mà xá miễn, đây là con đường
tốt nhất mà xá miễn, đây là con đường tốt nhất để đi. Đến như rước mời được thầy
pháp tuy tài giỏi nhưng thiếu đức thì cũng là làm cho có mà thôi chứ chưa chắc
đã ơn ích. Gởi lời nhắn với thế nhân hãy kịp thời thi hành đạo hiếu ngay lúc
song thân hãy còn tại thế, bởi vì một hạt cơm khi sống còn hơn cả hồ rượu dâng
cúng lúc đã qua đời. Song thân đã quá cố rồi thì càng phải tu hành đạo đức, ấn
tống nhiều kinh sách quí để khuyên đời. Nghĩa cử này vừa dễ dàng khiến Tiên Phật
và quan viên ở âm phủ cảm kích, lại vừa báo đáp được ơn sâu của song thân. Đó là
một phương pháp vượt thoát bể khổ, hãy tận tâm tận lực thi hành.
Dương Sinh: Lời dạy của ân sư chỉ thẳng vào lòng người, rất bổ ích cho chúng
sinh. Lúc sống ngỗ ngược oán hơn cha mẹ, sau khi cha mẹ chết mới nghĩ tới báo
hiếu thì hẳn là "Thụ dục tỉnh nhi phong bất túc, tử dục hiếu nhi thân bất tại".
(Cây muốn lặng gió chẳng mnuốn ngừng, con muốn hiếu cha mẹ chẳng còn). Xin hỏi
lại ân sư, quỉ ở địa ngục hình dáng giống hệt người ở dương gian, xác thịt đã
rửa nát tại sao còn thấy thân thể này?
Tế Phật: Đây là ảo thân, giả thân, ảnh thân tức thân ở cõi âm cũng còn gọi là
hoá thân. Vì thời giờ có hạn, xin Thái Sơn Vương gới thiệu một lượt các phần vụ
của quí điện.
Minh Vương: Bản điện cai quản địa ngục lớn nóng bỏng não nề cùng mười sau địa
ngục nhỏ, phàm các tội hồn chuyển giao tới bản điện, tôi chiếu theo công lý phán
xét không thiên vị tình riêng, để thấu tỏ vấn đề tôi hướng dẫn hai vị tới trước
tham quan.
Dương Sinh: hay lắm, hay lắm. Xin đa tạ sự chỉ giáo của Minh Vương.
Minh Vương: Văn võ bá quan hộ giá đưa Dương Thiện Sinh đi tham quan địa ngục lớn
nóng bỏng nẫo nề.
Văn Võ Bá Quan: Xin tuân lệnh. Mời hai vị cùng đi với Chúa Công.
Dương Sinh: Theo chân Minh Vương đường sá âm phủ cmả thấy thê lương, Vương pháp
vô thân, chỉ có đại diện cho đạo nghĩa mới thi hành được thôi.
Tế Phật: Này Dương Sinh, con cám cảnh thương tình nhưng địa ngục không thể nương
tựa bạn bè mà hoàn toàn tuỳ thuộc ở hành động ở hành động thiện ác lúc sinh
tiền, kẻ ác thì ác quỉ gần, người thiện thì thiện quan thân. Khuyên người đời
kết giao cùng bán tốt, quảng bá đạo lành để sau này khỏi bị đày ải ở địa ngục.
Dương Sinh: Đã cảm thấy khí nóng thiêu đốt, phía trước lửa cháy rực trời, chỉ
thấy một khối đỏ rực, trên cửa ngục có hàng chữ "Nhiệt Não Đại Địa Ngúc (Địa
ngục lớn nóng bỏng não nề), chung quanh ngục tường xây bằng gạch.
Tế Phật: Loại gặch này chịu nóng rất giỏi, lửa càng nóng gạch càng rắn chắc.
Ngục Quan: Hoan nghinh Chúa Công đã tới.
Minh Vương: Ta hướng dẫn Tế Phật cùng Dương Sinh thuộc Thánh Hiền Đường ở dương
gian tới đây tham quan, mau hàng ngũ chỉnh tề tiếp rước.
Ngục Quan: Xin tuân lệnh.
Minh Vương: Phía trước là địa ngục lớn nóng bỏng não nề.
Dương Sinh: Vô cùng nóng bỏng, phiến đá lớn như cánh phản đặt trên đất, phía
dưới lửa đỏ luồn qua, tội hồn bước lên đều lăn quay ra đất quằn quại kêu la. Tội
hồn từ ngoài áp giải vào nhìn thấy cảnh tượng đó trước mắt sợ hãi khóc rống như
cha mẹ chết, chân bước không nổi, âm binh từ sau đẩy tới, chân tội hồn lại đạp
lên đá lửa lập tức ngã lăn ra đất kêu gào thảm thiết, càng lăn lộn thân thể càng
bị thiêu đốt. Không rõ họ đã phạm phải những tội lỗi gì?
Minh Vương: Bản ngục mang danh là ngục nóng bỏng não nề, phàm ở đời quá tham
danh lợi, chuyên hại người để làm lợi cho mình, đối với kẻ khác phái thì chìu
chuộng hết mình, đối với người cùng phái thì lãnh đạm coi khinh; chuyên môn hại
kẻ khác lúc họ gặp nguy khốn, tính tình nóng nảy uất khí ngút trời, thoá mạ
thiên địa, chuyên lo việc đầu cơ cướp thời vận, đi ngõ sau để cầu lợi lộc, thích
xu thời nịnh thế, xa lánh kẻ nghèo hèn, khi gặp việc không giữ đạo trung dung,
thiên lệch cố chấp, phản bội đạo đức. tất cả những kẻ trên đều phải tới đây thụ
hình. Hình phạt của bản ngục vô cùng đơn giản, tội hồn chỉ cần đi hết con đường
gạch nung đỏ dài ba trăm dậm là tiêu tan hết tội lỗi. Muốn vượt qua con đường
gạch đá đỏ hồng này có kẻ mất năm ba năm mới xong, bởi lẽ hình phạt đều căn cứ
vào tội ác lúc sinh tiền nhiều hay ít. Kẻ tội ít chân đạp lên gạch đá đỏ, độ
nóng phía dưới tự nhiên giảm bớt đi qua dễ dàng, kẻ tội nặng thì lửa trái lại
bốc lớn, tuỳ theo ác nghiệp nặng hay nhẹ mà bị lửa thiêu nhiều hay ít . Ngục này
đã nóng lại oi khiến người ta ảo não muôn phần. Kẻ tới thụ hình ở ngục thứ 16
phải vượt qua con đường nhỏ phía bên, cũng gạch nung đỏ cũng lửa cháy như độ
nóng rất giới hạn, khiến tội hồn kinh hãi nhưng không nguy hiểm, chỉ cốt cho nếm
thử mùi vị khổ đau, tới ngục thứ 16 mới bị gia tăng hình phạt nghiêm khắc.
Tế Phật: Vì thời giờ eo hẹp, lần sau chúng tôi xin tới phỏng vấn tiếp, trân
trọng cáo từ.
Minh Vương: Đã cận giờ, chúng tôi không dám giữ, lệnh cho các Tướng Quân hàng
ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Dương Sinh: Cảm tạ Thái Sơn Vương đã nhiệt thành tiếp đãi, chúng tôi xin cáo
biệt, tạm từ giã.
Tế Phật: Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh: Bạch ân sư, con đã sửa soạn xong, mời ân sư trở lại Hiền Đường...
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI BỐN MƯƠI BA
DẠO ĐỊA NGỤC NƯỚNG TAY
Phật SỐng Tế Công
Giáng ngày 26 tháng 11 năm Đinh Tỵ (1977)
Thơ:
Lãnh thượng tân phân tuyết áp mai
Vô tình tuế nguyệt cấp tương thôi
Đồ đao phóng hạ thanh song thủ
Tính địa khuyến tu ác ngọc bôi.
Dịch:
Đỉnh núi tơi bời tuyết phủ mai
Vô tình năm tháng cứ trôi hoài
Ném dao đồ tể hai tay sạch
Hồn đất khuyên tu chén ngọc mời.
Tế Phật: Trên đỉnh núi lạnh hoa tuyết bay phất phới, năm cùng tháng tận đã tới,
khuyên môn sinh hãy quăng dao đồ tể, chớ tạo thêm ác nghiệp mới. Bữa nay chuẩn
bị dạo âm ti, Dương Sinh lên đài sen.
Dương Sinh: Khí trời quá lạnh, con sợ chịu không thấu xin ân sư ban thuốc tiên,
thưa có được chăng?
Tế Phật: Chẳng qua do ảnh hưởng tâm lý, tính linh do Trời phú há lại sợ lạnh
sao? Con đã cầu xin thuốc, tánh thầy lại vốn rộng lượng, vậy cho con viên thuốc
này uống mau đi rồi lên đường.
Dương Sinh: Đa tạ ân sư đã ban thuốc cùng tha tội mê chấp của con. Con đã sẵn
sàng, mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đã tới nơi, mau xuóng đài sen.
Dương Sinh: Thưa bữa nay tới thăm ngục nào? Tại sao chưa thấy Ngục Quan ra đón,
chỉ thấy âm binh áp giải tội hồn đi đi lại lại.
Tế Phật: Chúng ta gắng đi thêm một doạn đường nữa sẽ rõ.
Dương Sinh: À thì ra phía trước là Địa Ngục Nóng Bỏng Não Nề, lần trước đã thăm
qua bữa nay lại tới thăm tiếp.
Tế Phật: Không phải, hôm nay chúng ta tới thăm ngục nướng tay, muốn tới ngục này
phải băng qua con đường nhỏ nằm bên cạnh ngục nóng bỏng ảo não.
Dương Sinh: Phía trước hơi nóng luộc người, làm sao băng qua nổi Vả lại từng
nghe đường đó là đường nóng bỏng, chân con lại là chân phàm đi qua tránh sao
khỏi bị phỏng?
Tế Phật: Con đừng sợ, có ta đi bên cạnh đất nóng sẽ hoá thành đất mát.
Dương Sinh: Kính xin thầy hoá phép kẻo không qua nổi, vì đường nhỏ phía trước
màu gạch đỏ rực như bị lửa nung.
Tế Phật: hãy nhìn ta hoá phép, quạt Phật quạt một quạt khiến đường lửa đỏ hoá
thành đường mát mẻ yên lành dễ dàng vượt qua.
Dương Sinh: Quả là phép Phật vô biên, con đường đỏ rực đột nhiên biến thành con
đường mát mẻ. Có một số tội hồn băng qua mà thân thể chẳng hề hấn gì, khiến mọi
người kinh ngạc bội phần, ngơ ngác nhìn bốn phía, các tội hồn bèn ùn ùn kéo
qua...
Tế Phật: Mau theo ta băng qua kẻo tới lúc pháp hết hiệu nghiệm con khó đi qua...
Dương Sinh: Băng mình theo ân sư đã tới chốn, phía bên trái con đường thấy có
Ngục Quan cùng Tướng Quân xếp hàng chờ đón.
Tế Phật: Đây là Ngục Quan cùng Tướng Quân của ngục nướng tay, mau tới chào ra
mắt.
Dương Sinh: Kính chào Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân, tôi là Dương Thiện Sinh
thuộc Thánh Hiền Đường Đài Trung phụng mệnh theo thầy tế Phật tới quí ngục thâu
lượm những bằng chứng để viết sách khuyên răn giáo hoá người đời làm điều phước
thiện, bữa nay tới đây xin được lãnh giáo nhiều điều ơn ích.
Ngục Quan: Hoan ngh6nh hai vị tới thăm bản ngục, Dịa Ngục Du Ký sẽ đăng tải
những án chứng của bản ngục thực quả là vinh hạnh. Kính mời hai vị vào trong
ngục tham quan.
Dương Sinh: Xin đa tạ Ngục Quan đã quá lưu tâm. hàng chữ hiện trên cửa ngục, hai
bên có quân lính cầm khí giới canh giữ rất là nghiêm ngặt.
Ngục Quan: Mời hai vị vô trong.
Dương Sinh: Đã nghe thấy tiếng khóc than buồn thảm vang rần.
Tế Phật: Các ngục đều than khóc thê lương, nghe như tiếng người dương gian rên
xiết lúc lăm bệnh, sầu thảm trông mong được cứu rỗi.
Dương Sinh: Cửa ngục trang bị cực kỳ tối tân khoa học. Hai tay tội hồn bị cột
chặc vào trục xe bằng sắt nóng đỏ có lửa chấy luồn qua, hai tay tội hồn bị chấy
bỏng, muốn giựt ra mà chẳng được. Trục xe bằng sắt sức nóng quá mãnh liệt, thiếu
sức co giãn nên truyền nhiệt rất lẹ, tội hồn mong thoát nạn nhưng chẳng thể giảm
được sức nóng của lửa nên té lăn ra, đôi tay như hai cục than lửa muốn quăng đi
mà chẳng được, mặt mũi mồ hôi nước mắt đầm đìa, hai tay cháy trụi đau đớn khóc
ngất.
Ngục Quan: Bản ngục tên gọi là Ngục Nướng tay, trước đây dùng bàn ủi nóng ủi
tay, sau này nhờ phối hợp được thủ đoạn cao minh của người đời nên mới cải tiến
hình phạt này. Để tôi sai áp giải thêm vài tội hồn nữa ra đây để chúng thuật rõ
lại những hành động phi pháp của chúng lúc còn tại thế.
Dương Sinh: Âm dương cùng một lẽ, quả là cao nhân tất hữu cao nhân trị.
Ngục Quan: Tội hồn hãy nghe ta bảo: Bữa nay Phật Sống Tế Công cùng Dướng Thiện
Sinh thuộc Thánh Hiền Đường ở Đài Trung trên dương gian xuống bẻn ngục thu thập
những bằng chứng để khuyên răn người đời, các ngươi hãy thuật hết những hành
động phi pháp để giáo hoá thế nhân.
Tội Hồn: Tôi lúc còn sống quen thói chơi bời phóng đãng, thường núp trong bóng
tối chọc ghẹo làm nhục đàn bà con gái qua đường, đời tôi đã phạm tội này có tới
mười mấy lần, sau khi chết bị xử đày tại ngục này để chịu tội.
Ngục Quan: Vùng tay động loạn phải chịu tội ma chướng này.
Tội Hồn: Tôi lúc sống chuyên môn xúi người này kẻ nọ kiện cáo lẫn nhau rồi viết
đơn kiện cho họ để ở giữa thủ lợi, cả đời tôi toàn phạm tội này, sau khi chết
Minh Vương giận quá phán rằng lúc sống tôi ham viết hơn kiện cáo, đôi tay hại
người nên phải đốt nó đi do đó tôi bị đày tại ngục này chịu tội. Đau đớn cùng
cực mà chẳng một ai biết tới, kính xin Phật Sống Tế Công cứu mạng.
Tế Phật: Người đã rành về sở trường chuyên môn cớ sao không viết đơn kiện Diêm
Vương để xin tha tội.
Tội Hồn: Diêm Vương mặt sắc vô tư, tôi chẳng dám tự chuốc phiền.
Tế Phật: Dĩ nhiên là thế nhưng cầu cứu ta cũng chẳng khác hơn.
Ngục Quan: Không được tự tiện van xin. Tội hồn thứ ba mau mau cung khai.
Tội Hồn: Tôi lúc sống mở sòng bài, thường bày trò cờ gian bạc lận nên kiếm được
rất nhiều tiền, lúc sống vì có tiền một cách quá dễ dàng như vậy nên đời sống
khá giả do đó thường hành động bất chính làm hại xã hội. Sau khi chết mới hay
Diêm vương quá giận phán đày tôi 30 năm tại ngục nướng tay, hàng ngày khổ đau
không chịu thấu.
Tế Phật: Đã mở sòng bài còn tổ chức cơ gian bạc lận, tội người quá tàn ác, nếu
như mãn hạn tù tái sanh làm người, hai tay chắc hẳn bị tàn phế đúng là ác nghiệp
quả báo, hy vọng người đời mau tỉnh ngộ bỏ đánh bài đánh bạc. Tội hồn thứ tư mau
khai rõ những tội đã làm.
Tội Hồn: Tôi lúc sống thường dùng chi phiếu không tiền bảo chứng để lừa gạt kẻ
khác lấy tiền, sau khi chết bị đày tại ngục này. Lúc sống chỉ nghĩ cao bay xa
chạy là chủ nợ chẳng biết đâu mà đòi, ngơ đâu chết xuóng âm phủ, Diêm vương bắt
tới đây chịu hình phạt.
Ngục Quan: Thiếu nợ người đáng lý mi phải trả sòng phẳng, trái lại mi còn cố
tình lường gạt cho nên sau khi chết mi mới bị hình phạt nghiêm ngặt trừng trị,
thật chẳng on uổng chút nào.
Tế Phật: Hiện thời người đời dùng chi phiếu không tiền bảo chứng rất nhiề. Xuất
chi phiếu ra rồi trốn biệt tăm như vậy là kẻ lường gạt, sau khi chết tất nhiên
sẽ bị hình phạt nghiêm khắc. Kiếp lai sinh sẽ phải làm trâu làm ngựa để trả
nghiệp, cổ kim trong ngoài chẳng một ai có may mắn thoát khỏi. Nhân quả báo ứng
một mẩy long, một sợi tơ cũng không thể trốn thoát, người đời nên thận trọng.
Ngục Quan: Tội hồn thứ năm, sao mi lại mất hết cả thần khí vậy? Hãy mau khai rõ
những tội đã phạm lúc mi còn sống.
Tội Hồn: XIn Ngục Quan chớ mỉa mai tôi, tôi lúc sống có chân trong một đảng bất
lương, thường hay sinh sự, phá rối an ninh ngoài xã hội, hễ gặp việc trái mắt
hay bất chợt thấy kẻ nào nhìn chăm chú mình, tôi liền giơ tay đnáh liền, hành
hung người như vậy mà chẳng cho là quan trọng gì. Sau khi chết Minh Vương sai
quỉ đầu trâu mặt ngựa hành hạ tôi rồi hỏi tôi có chịu khuất phục không? Khiến
tôi nhớ lại hành vi mà tôi đã làm lúc còn sống thì không thể nào ứng đối dược.
Ngục Quan: Mi lúc còn là thanh niên, hoả khí mạnh mẻ chuyên môn đánh đạp người,
phá hoại an ninh xã hội, nắm tay của mi đã quá cứng, hiện tại tốt hơn kêu mi đấm
vào trục xe gang thép để cho nó tiêu hết hoả khí của mi đi.
Tế Phật: Thời giờ đã tới, Dương Sinh mau trở lại Hiền Đường.
Dương Sinh: Cáo từ Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân, xin đa tạ sự tiếp đãi cùng
chỉ giáo nồng hậu.
Ngục Quan: Không có chi đó chỉ là lễ mọn. Lệnh chư Tướng Quân hàng ngũ chỉnh tề
đưa tiễn.
Tế Phật: Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư trở lại Hiền Đường.
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh đài sen, hồn phách nhập thể xác.
...............................................
HỒI BỐN MƯƠI BỐN
DẠO ĐỊA NGỤC RÚT RUỘT
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 29 tháng 11 năm Đinh Tỵ (1977)
Thơ:
Loan bút ma thành cửu chuyển đan
Hồi sinh hữu thuật phục chi an
Thiên thư vạn quyển khai nhân trí
Ngọc Đế hồng ân báo bất toàn.
Dịch:
Bút thánh giáng cơ thông đạo huyền
Hồi sinh có thuật giúp tâm yên
Sách Trời vạn quyển khai phàm trí
Ngọc Đế hồng ân báo chẳng tròn.
Tế Phật: Hồn người đời du địa ngục chẳng phải là chuyện thần thoại hay hoang
đường, từ xưa tới nay đã có nhiều kẻ chết đi còn sống lại. Hẳn là những kẻ đều
lãnh hội tường tận âm thanh cùng hình ảnh ở địa ngục nên có thể tả lại những
cảnh tượng đó dễ dàng, đủ chứng tỏ những điều tả trong kinh sách không phải là
không có thực. Người đời chỉ vì chưa đích thân nhìn thấy mà do đó chẳng tin, cho
nên những điều nói ra thì là biết mà lại bị nghi là mê. Điều này làm sao giải tỏ
được đây? Lục phủ ngũ tạng trong cơ thể chúng ta cũng còn là một vật nhìn chẳng
thấy gì mà vẫn yên ổn vô sự. Nhưng nếu một sớm ta khám phá ra hoặc cảm giác đã
đến giờ thì chắc là thảm lắm. Chẳng phải chỗ này đau thì cũng chỗ khác đau, cần
phải chiếu quang tuyến X rồi giải phẩu. Người đời lúc thường không nhìn rõ lục
phủ ngũ tạng có thể nói là nó không có không? Địa ngục bình thường nhìn chẳng
thấy nhưng nó vẫn tồn tại, trừ một số ít người lúc sống có thể nhìn thấy, kẻ
khác một sớm nhìn thấy địa ngục ắt là đã tới phút gần đất xa trời. Sở dĩ ta
khuyên người đời giác ngộ, xác nhận những cái không nhìn thấy nhưng lại vẫn tồn
tại như tư tưởng, hít thở, cảm tình v.v... đều là nhìn chẳng thấy chỉ có thể
dùng cảm giác để lãnh hội, vả chăng những cái không nhìn thấy đó chính là cái
duy trì mạng sống, là nguyên tố chủ thể xác thân.
Dương Sinh: Lời giảng của ân sư thật đúng đạo lý, tiếc rằng người đời phần đông
không thấu tỏ sự tình, chẳng khác gì kẻ mù tự mình nhìn không thấy cho nên mới
phủ nhận. Thế gian đắm chìm trong chốn hình hình sắc sắc, chỉ nhờ vào cây gậy mà
muốn đi xa hàng ngàn vạn dậm, điều này đã chứng tỏ cặp mắt thịt của chúng ta bị
chắn bởi nhiều vật chướng ngại, chỉ có mắt huệ mới thông mọi lẽ. Nhưng tiếc rằng
chúng ta đã đóng mắt huệ cam chịu sống mù loà để mặc cho dục tình lôi cuốn mà
đắm chìm trong các kiếp luân hồi khổ đau.
Tế Phật: Con nói đúng, người đời đều hiểu rõ điều tai hại của sự phạm pháp,
giống như giếng trước mặt biết là có thể lọt xuống nhưng vẫn không chịu mở mắt
ra nhìn quả là còn thua kẻ mù loà vì họ còn biết dùng gậy dò dẫm đường đi. Tới
lúc bị té xuống hang địa ngục sâu vạn trượng, muốn vươn mình thoát ra nhưng
không rõ phải đợi tới mấy mươi kiếp sau. Thời giờ đã muộn, Dương Sinh chuẩn bị
dạo âm ti, mau lên đài sen.
Dương Sinh: Bạch ân sư, con đã chuẩn bị xong xuôi.
Tế Phật: Nhìn quần áo của con bám đầy bụi đất, lại không khố ráo sạch sẽ, như
vậy lúc tới Minh Phủ hẵn là thất lễ.
Dương Sinh: Thưa ân sư y phục bị bụi sa bàn làm dơ bẩn, con lại vô tình không
lưu ý, xin ân sư tha tội.
Tế Phật: Người trần tới Minh Phủ, chẳng thể không giữ sạch sẽ nên quần áo phải
thơm tho để còn được dặc biệt chú ý, mau lên đài sen.
Dương Sinh: Con đã sửa soạn xong, xin ân sư khởi hành...
Tế Phật: Đã tới nơi, Dương Sinh mau xuống đài sen, đến làm lễ ra mắt Ngục Quan.
Dương Sinh: Xin vâng lệnh. Kính lạy Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân.
Ngục Quan: Miễn lễ, hoan nghênh Phật SỐng Tế Công cùng Dương Thiện Sinh tới
thăm. Bản ngục đã sớm nhận được thư của Dương Thiện Sinh thuộc Thánh Hiền Đường
xin tới phỏng vấn để viết sách khuyên răn người đời, công đức thật quả là vô
lượng. Bản ngục là ngục rút ruột, kính mời hai vị vào trong tham quan.
Dương Sinh: Xin đa tạ Ngục Quan đã tiếp đãi nồng hậu, nguyên trong này là ngục
rút ruột, âm binh tới tới lui lui, áp giải tội hồn đi ra, đã bắt đầu nghe thấy
tiếng kêu gào.
Tế Phật: Ta hãy mau theo chân họ vào trong.
Dương Sinh: Đã thấy rõ cảnh tượng ở trong ngục, thân tội hồn máu mé nhuộm đỏ, bị
trói vào các cây cột, âm binh, quỉ binh dùng dao rạch bụng tội hồn, da bụng rách
toang, ruột và bao tử lòi ra rớt xuống đất, bên cạnh cả bầy chó đen giành nhau
cắn xé. Ruột và dạ dày tuy đà rớt ra nhưng vẫn còn liền với tim vì tim chưa rời
thân thể nên khi bị chó cắn nhai giành xé thì tội hồn đau đớn kêu rống lên rồi
ngất xỉu, khiến lúc này mắt chẳng dám nhìn. Xin hỏi Ngục Quan bọn họ đã phạm
phải tội gì mà tới nỗi bị đày ải ở ngục này?
Ngục Quan: Các tội hồn này khi còn sống đều là bọn tham quan ô lại, hoặc là
những kẻ lòng lang dạ sói, cho nên sau khi chết tới bản ngục thụ hình, như muốn
thấu tỏ sự tình, để tôi sai áp giải vài tội hồn ra đây tra hỏi.
Dương Sinh: Như vậy hay lắm, phải có bằng chứng xác thực người đời mới chịu tin
là đúng.
Ngục Quan: Tôi đã đem tội hồn ra, mời Dương Thiện Sinh tra hỏi họ.
Dương Sinh: Xin hỏi tội hồn, cớ sao người lại tới chốn này?
Tội Hồn: Tôi lúc sống làm quan, thường lợi dụng phương tiện quan tước sang đoạt
của cải, đất đai, cướp không lợi lộc. Bất cứ phương diện nào có lợi, tôi đều tận
dụng mọi phương cách ngưỡng đoạt cho bằng được để làm của riêng. Chẳng ngờ sau
khi chết bị đưa lên đài gương soi ác nghiệp để cho lộ rõ chân tướng. Tất cả
những hành động tham lam cưỡng đoạt tiền tài của cải đều hiện rõ mồn một, khiến
tôi vô cùng kinh dị. Trải qua các điện phán xử, cuối cùng tôi bị giải giao tới
Đệ Thất Điện rồi Thái Sơn Vương phán đày tôi tại ngục moi ruột, hàng ngày bao tử
và ruột bị móc ra cho đàn chó giành nhau ăn, sự thống khổ khó mà hình dung nổi.
Ngục Quan: Người là kẻ có chức vụ trong chính quyền, chẳng chăm lo phúc lợi cho
trăm họ lại còn lột da lóc thịt muôn người, miễn là nuốt trôi được là nuốt, ruột
và bao tử ngươi lúc này thực quá nhơ bẩn! Khuyên những kẻ làm quan ở chốn thế
gian nên vì trách nhiệm phục vụ nhân quần, luôn luôn phải vì dân thương dân,
trung trinh với nước ắt công đức vô thường. Nếu như chỉ vì mục tiêu thủ lợi, sau
khi chết chắc chắn sẽ bị đầy đoạ tại chốn địa ngục.
Dương Sinh: Xin hỏi lại bà lão, bà già như thế này cớ sao còn bị xử laọi hình
phạt này, phải chăng lúc sinh tiền có làm điều chi thất thố chăng?
Tội Hồn: Nhớ lại lúc sống giờ hối hận thì đã quá trễ rồi. Lúc tôi 48 tuổi vì
buôn bán thua lỗ, bèn đứng ra làm chủ hụi, nhân một chốc mất lý trí đã quyết
định giật tiền hụi của người rồi dời đi xứ khác. Tới 54 tuổi ngã bệnh thác, bị
giải giao tới Đệ Thất Điện, Diêm Vương phán đày tôi tại đây để thụ hình.
Ngục Quan: giật hụi của người, nuốt vào rồi ói ra chẳng được bây giờ chỉ còn
cách ói ruột và bao tử ra ngoài, ăn bao nhiêu trả bấy nhiêu, luật pháp ở cõi âm
rất công bằng, ngươi tự làm tự lãnh, ngày sau mãn hạn tù, lại tái sinh để trả
nợ.
Dương Sinh: Xin hỏi lão ông thời gian thụ hình tại ngục này la bao lâu?
Tội Hồn: Mất ba năm. Lúc sinh tiền gia đình tôi sống bằng nghề nông, chuyên
trồng rau để sinh nhai, chẳng hiểu sao tới tuổi trung niên, rau đậu thường bị
côn trùng phá hại cho nên phải dùng thuốc trừ sâu bọ để tiêu diệt chúng, tới lúc
thấy giá rau tăng vọt, liền hái rau mới phun thuốc được một hai ngày đem bán.
Chỉ có vậy mà sau khi chết liền bị Minh Vương phán đày tại ngục rút ruột vì tội
vô tình gây tai hại.
Ngục Quan: Ngươi chỉ lo kiếm tiền nên đã đem rau còn dính độc dược bán ra hại
người không ít, rất nhiều người ăn rau đậu của ngươi trúng độc, hoặc độc tố tích
thiểu thành đa mà thành bệnh gan, bệnh ung thư, lòng dạ ngươi quá độc cho nên
phải thụ lãnh hình phạt.
Dương Sinh: Xin hỏi bà lão tại sao bà lại phải vào đây?
Tội Hồn: Chao ôi! Trời đất ơi! Ở trong này khổ sở quá, kính xin thầy cứu sống
tôi.
Tế Phật: hiện tai ta rất thương nhà ngươi, nhưng hãy nhớ lại tại sao ngày trước
nhà ngươi không thương xót kẻ khác? Hãy mau nói rõ nguyên do tội ác của nhà
ngươi.
Tội Hồn: Đúng, tôi có một đứa con gái nuôi, từ lúc bé tôi đã không thương nó lại
còn hay đánh đập. Tới lúc lớn vì nó có nhan sắc nên tôi đã cưỡng bách bán nó cho
động mãi dâm để lấy tiền. Sau khi chết tôi bị Diêm Vương phán đày ttại đây.
Ngục Quan: Lòng dạ ác độc, coi con gái nuôi là vật kiếm tiền, phá hoại luân
thường đạo lý, tiêu huỷ lẽ trời, lòng sắt dạ thép thật mi đáng tội.
Tế Phật: Thời giờ eo hẹp, Dương Sinh chuẩn bị trở lại Hiền Đường.
Dương Sinh: Con còn có vấn đề thỉnh giáo ân sư. Trong lúc thụ hình có một số tội
hồn đã bị hôn mê bất tỉnh thì làm cách nào cho họ sống lại để xử phạt tiếp?
Tế Phật: Con từng mơ thấy con bị kẻ khác giết chưa? Nếu có hẳn là thân thể lúc
đó cảm thấy đau đớn vô cùng nhưng khi tỉnh lại chỉ còn mồ hôi lạnh chảy đầm đìa,
không hề chết chăng? Đem mai lại nằm mê nữa, sau khi tỉnh dậy lại thấy mình như
trước, thân thể vẫn còn nguyên vẹn không có chỗ nào mang thương tích cả. Sỡ dĩ
sau lúc người ta chết, hồn phách họ cũng giống như khi mộng du vậy, thân tuy bị
hình tội thống khổ, bị âm binh dùng nước hoàn hồn xối, sau khi tỉnh lại chẳng
thấy thương tích gì cả, làm như vậy chỉ cốt để cho họ nhớ lại cái cảm giác kinh
hãi của sự thống khổ vậy. Thảm hình ở âm phủ chẳng qua chỉ là để cho tính linh
của người ta thức giác mà thôi do đó mới ví sự chết là giấc mộng lớn, vậy thì
người ta lúc chết hẳn là đi vào một giấc mộng dài để ném mùi đau khổ. Thêm một
ví dụ khác như trong lúc nằm mộng lượm được vàng, vui sướng điên cuồng, tới khi
tỉnh dậy không lại hoàn không, đã cho thấy mộng ảo chẳng thể có thức mà do kẻ mê
lầm tưởng. Thế nhân tu đạo nếu như không giác ngộ điểm này mà cứ cố chấp vào
hình danh sắc tướng, hẳn là cuôi cùng sẽ rơi vào trường mộng ảo.
Dương Sinh: À thì ra là thế! Thưa ân sư, con đã sửa soạn xong, xin tới từ giã
Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân.
Ngục Quan: Lệnh cho các Tướng Quân hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn...
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI BỐN MƯƠI LĂM
DẠO ĐỊA NGỤC OẰN LƯNG ĐỘI ĐÁ
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 9 tháng 12 năm Đinh Tỵ (1977)
Thơ:
Trọng đạo tôn sư đức nghiệp tuân
Điêu hoa lạc diệp tổng qui căn
Tư nguyên niệm bản thông chân tính
Bội nghĩa vong ân hà túc luân.
Dịch:
Trọng đạo tôn sư nghiệp đức nên
Hoa rơi lá rụng thảy qui nguồn
Nhớ mong gốc gác thông chân tính
Bội nghĩa vong ân há lạm bàn.
Tế Phật: Năm rắn sắp hết, mọi người đều nghĩ năm Ngựa tới sẽ thành công, đó
chẳng qua chỉ vì muốn thành công nên cho rằng ngựa không dừng vó gắng gỏi tiến
lên. Ta hy vọng người đời qua năm mới thúc ngựa gia roi, nếu không ngựa chẳng ra
ngựa cọp chẳng ra cọp, tiếng hô sẽ giống như gió xuân qua tai ngựa, tu đạo nên
học cái tính của con ngựa luôn luôn hướng về tinh thần vô địch không hề sợ sự
trở ngại gian nan, còn như nếu buông bỏ, tới đâu hay tới đấy, một sớm thấy mình
già nua hẳn là có bốn ngựa cũng khó đuổi kịp. Bữa nay chuẩn bị dạo âm ti, Dương
Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh: Con đã sẵn sàng, mời ân sư lên đường, không rõ bữa nay mình dạo thăm
ngục nào.
Tế Phật: Sẽ tới ngục oằn lưng đội đá trực thuộc sự cai quản của Đệ Thất Điện.
Chuẩn bị khởi hành... Đã tới địa ngục oằn lưng đội đá, Dương Thiện Sinh mau
xuống đài sen.
Dương Sinh: Quả nhiên chỉ sau một sát na đã tới, khi ngồi trên đài sen ở trước
Hiền Đường, nhắm chặt hai mắt giống như ngồi trên máy bay phản lực, chỉ nghe
tiếng "vù" bên tai đã tới địa ngục.
Tế Phật: Người cũng giống như phi cơ ở giữa không trung, phải không có chướng
ngại vật còn không nguy hiểm vô cùng, vì nếu sơ sẩy thì chỉ trong nháy mắt là
rớt xuống vực sâu muôn ngàn trượng. Có thể nói chỉ cần một chút sơ ý xương thịt
lập tức tan thành tro bụi vô phương tìm kiếm. Càng định được thần càng tăng thêm
sự nhẹ nhõm, càng nhẹ nhõm càng dễ cất cánh, do đó người ta lên hay xuống đều
phải căn cứ vào sự quyết tâm mới đạt tới trạng thái ổn đỉnh lớn lao. Người đã tu
tâm dưỡng tính, dù có lâm cảnh trận mạc cũng chẳng dễ dàng hốt hoảng. Còn nếu
không tu, sự đoạ lạc địa ngục xảy đến cũng chỉ trong một thoáng phút giây. Do đó
khuyên người đời cần phải ổn định tâm trí, nhìn rõ phương hướng, dù cho có bị
lạc vào chốn khói sương mê hồn trận cũng vẫn còn có tâm là kim chỉ nam. Nếu nắm
vững được tâm, tự nhiên thành công trong mọi việc, ngồi trên toà sen ở giữa chốn
bụi bẩn nước nhơ được hẳn là phải có công phu về định thần tĩnh tâm mới có thể
ngồi nổi, còn không chỉ cần một chút sơ sẩy sẽ bị mất hút nơi chốn vực sâu không
đáy. Con có phúc khí mới có thể ngồi nổi, cho nên phải cố giữ gìn. Mau tới trước
trước mặt Ngục Quan làm lễ ra mắt.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Kính chào Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân, tôi là
Dương SInh thuộc Thánh Hiền Đường bữa nay thầy trò chúng tôi phụng chỉ tới quí
ngục thăm hỏi sự tình, kính xin Ngục Quan giúp đỡ phương tiện.
Ngục Quan: Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Sinh tới thăm, việc phụng chỉ viết
sách là việc làm vô cùng quang vinh, mời hai vị vào trong ngục thăm quan.
Dương Sinh: Cảm tạ Ngục Quan... phía trong các tội hồn đang làm việc, người lớn
kẻ nhỏ đều đang khuân những tảng đá phải chăng quí ngục đang xây thêm phòng mới?
Ngục Quan: Trong này không xây thêm phòng mới, các tội hồn phải đội đá vì đó là
một thứ hình phạt.
Dương Sinh: Các tội hồn khi khuân đá, miệng lớn tiếng kêu than, cũng chẳng lấy
làm lạ vì họ phải đội những tảng đá quá lớn, hai tay giữ chặc, mình khom khom
giống như là đã kiệt sức, mỗi bước đi chỉ nhích được chừng một tấc. Có kẻ sức
không chịu nổi, tảng đá rớt xuống đè nát mình hoặc dập xương chân, nằm chết
ngất, âm binh múc nước xối liền tỉnh dậy, lại bê đá đội lên đầu tiếp tục đi.
Hình phạt này đã có từ xưa, nay lại dùng phạt tội hồn kể cũng khá hữu dụng!
Ngục Quan: Những tội hồn này đang luyện "thiết đầu công" (công lực đầu sắt) vì
họ là những kẻ lúc sống cứng đầu, cao ngạo, thích làm thầy đời, không yêu sự
thanh cao, không tôn sư trọng đạo cho nên sau khi chết đều phải tới đây tu
luyện.
Dương Sinh: Xin Ngục Quan cho gọi máy tội hồn tới đây để tôi hỏi họ xem lúc sống
họ đã phạm phải tội gì?
Ngục Quan: Hay lắm, để tôi truyền lệnh gọi mấy tội hồn tới đây để nó khai rõ
những lỗi lầm lúc còn sống để làm bài học răn đời... các tọi hồn đã tới, mời
Dương Sinh tra hỏi.
Dương Sinh: Xin hỏi vì cớ gì lại phải tới đây đội đá?
Tội Hồn: Nói ra xấu hổ muôn phần, tôi lúc sống là giáo sư, liền lợi dụng uy tín
sẵn có của mình mà dụ dỗ những nữ sinh có nhan sắc vào đường dâm ô. Lúc sống tuy
chuyện xấu xa không bại lộ, nhưng sau khi chết lại khó trốn thoát khỏi con mắt
thứ ba của Diêm Vương mặt sắt. Khi tới địa ngục âm binh cùng Diêm Vương các điện
ra lệnh đánh tôi bằng roi, sau đó giao qua Đệ Thất Điện, Thái Sơn Vương thấy tôi
khí giận bốc, tóc dựng đứng, mắng tôi là quân súc sinh, làm thầy dạy người mà
không giữ thân trong sạch, mà lại đi làm nhục nữ sinh, phán đày tôi tại ngục
còng lưng đội đá, cất đầy chẳng nổi.
Ngục Quan: Mi là thầy dạy học mà không biết liêm sĩ lại đi gian dâm với nữ sinh,
tội mi các ác. Giờ đây bắt mi đội đá cho đầu mi gãy gập, khí mi tiêu tan chẳng
còn mặt mũi nào nhìn thấy ai nữa để cho hết còn xấu hổ. Khuyên những kẻ làm thầy
ở thế gian, bất luấn là đạo sư, giáo sư hay bách nghệ sư, sĩ nông công thương
không có thầy truyền dạy ắt nghề chẳng tinh. Thầy trò như cha với con, nên lấy
lễ mà đối xử, không được vượt ra ngoài khuôn phép mới mong tránh khỏi luật trời
trừng trị. Mời Dương Thiện Sinh tiếp tục tra hỏi.
Dương Sinh: Xin hỏi tội hồn, nhìn diện mạo nhà ngươi thấy cũng có vẽ tu hành,
đầu lại húi trọc, cớ sao phải vào đây "luyện công"?
Tội Hồn: Xin chớ có mỉa mai tôi, đầu phải húi trọc vì đội đá mà để tóc tôi có
cảm giác đau nhức không chịu nổi. Lúc sống tôi là một kẻ sĩ học đạo, sau khi vào
trường, đọc được ít kinh sách liền cho mình đã đắc "vô thượng tâm pháp" gặp lão
sư sở học kém tôi từ đó tôi tự phong tôi làm thầy, lại thường phê phán thầy
trước mặt bạn cùng trường. Sau khi chết vì tôi đã từ lâu khinh thầy do đó mà bị
âm sai áp giải xuống đị ngục. Sau khi bị Diêm Vương phán xử, tội của tôi là "thụ
sư chi đạo, bại sư chi đức" (học đạo của thầy mà lại phản đức của thầy). Phàm
thông hiểu kinh sách hẳn có thể đem chân lý dạy cho người chứ không được tự xưng
là thầy một cách kiêu căng ngạo mạn. Nếu như không tuân theo lời khuyên này, ắt
bị đày tại ngục còng lưng đội đá, hàng ngày phải gập mình đội đá đi đường cho
tiêu tán ác nghiệp.
Tế Phật: Học sĩ có tài năng hẳn là chăm lo phát huy hết khả năng của mình, tự
ngàn xưa đã có nhiều trường hợp trò giỏi hơn thầy. Nhưng còn kẻ kiêu căng tự cho
là mình tài giỏi hơn thầy, nếu như tôn sư trọng đạo thì không thể chê trách
thầy. Các loại nghề ở thế gian đều do các bậc thầy truyền dạy mới có thể thành
công. Nhưng thế nhân giờ đây có nhiều kẻ quá hiện thực, học nghề chưa giỏi đã
vội bỏ thầy bỏ trường để đi kiếm tiền, đối với thầy cũ vong ân bội nghĩa. Kẻ học
đạo khoe tài lập dị, ham làm thầy đời, khoe danh khoe mẽ, đại phản thầy phản đạo
phải mau sám hối mới mong được miễn cái khổ còng lưng đội đá.
Dương Sinh: Xin hỏi tội hồn vì cớ gì lại phải tới đây chịu khổ hình.
Tôi Hồn: Tôi lúc sống đã giàu có lại thêm có tài biện bác, mỗi khi nói ở giữa
đám đông thường khinh kẻ nghèo, ỷ thế đè người. Mỗi khi nói ra là chữi mắng kẻ
nọ kẻ kia, nói năng bừa bãi không chịu giữ mồm giữ miệng. Chỉ có phạm mỗi một
tội này mà phải tới đây chịu hình phạt, lòng tôi có chút không phục, kính mong
Phật Sống tế Công hãy nhân danh là người nắm đạo công bằng biện giải giùm tôi.
Tế Phật: Hay lắm hay lắm nhưng hãy đưa tiền đây ta mới nói, không có tiền lời
nói không có kí lô nào cả, chẳng ai chịu nghe, nếu như có tiền ta có thể nói nhỏ
với Ngục Quan giảm bớt tội cho ngươi.
Tội Hồn: Đa tạ sự giúp đỡ của ngài, hiện tai tôi không mang tiền theo, để lại
hết ở trần gian bị con cháu tiêu hoang phí phá hoại, bây giờ làm sao tôi lo nổi?
Tế Phật: Thực chẳng khác gì mộng huyễn, "hữu tiền hữu thế nhân đê đầu, vô tiền
vô thế tự thuỳ đầu". (Có tiền có thể người cúi đầu, không tiền không thế mình tự
gục đầu). Ai bảo ngươi lúc sống kiêu ngạo, như nay tiền tài và thế lực ở đâu?
Lại còn phải đưa đầu đội đá để gột rửa lỗi lầm.
Ngục Quan: Mi quá ác độc, lúc này còn nghĩ dùng thế lực đè người. Diêm Vương mặt
sắt có dùng tiền mua chuộc cũng chẳng được nào. Vừa rồi Tế Phật mỉa mai châm
chọc mi, mi có biết không? Từ rày về sau chớ có nói xàm, trái lệnh sẽ bị tăng
thêm hình phạt.
Tế Phật: Đường đời dành ba phần đường cho người đi, không thể độc chiếm một mình
mình đi, người chẳng thể vĩnh viễn cao cao ở trên chỉ cần một sớm thất thế, thất
lợi là người bỏ hết. Nếu như lại quá khinh người, kiêu ngạo không chịu cúi đầu
hẳn là sau khi chết chẳng thể tránh khỏi gục đầu dấu mặt. Đã tới giờ, xin cáo từ
Ngục Quan, chúng tôi sửa soạn trở lại Hiền Đường.
Dương Sinh: Đa tạ Ngục Quan. Chúng tôi đã phiền nhiễu chư vị Tướng Quân quá
nhiều, xin cáo biệt.
Ngục Quan: Lệnh cho cá Tướng Quân hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Tế Phật: Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh: Con đã sẵn sàng, xin ân sư trở lại Hiền Đường....
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI BỐN MƯƠI SÁU
DẠO ĐỊA NGỤC VẠC DẦU SÔI
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 23 tháng 1 năm Mậu Ngọ (1978)
Thơ:
Hiệu đạo như đồng lạp lệ lưu
Ân cần dục đãi lạc thời hưu
Khai hoài nghinh đắc xuân phong ý
Đối nguyệt đàn cầm thạch điểm đầu.
Dịch:
Học đạo cũng như lệ nến trào
Thiết tha đợi lúc nghỉ tiêu dao
Trút sầu nghênh đón mùa xuân mới
Trăng đá đàn ca ý dạt dào.
Tế Phật: Năm mới Mậu Ngọ, lần đầu tiên dạo âm phủ viết sách, ngày xuân còn tràn
trề khí xuân, rất tốt cho sự mở đầu công việc. Dương Sinh sửa soạn dạo địa ngục.
Dương Sinh: Bạch thầy con đã chuẩn bị xong, kính mời thầy lên đường...
Tế Phật: Đã tới nơi, mau xuống đài sen.
Dương Sinh: Bạch thầy con đã xuống rồi, bữa nay mình dạo thăm ngục nào?
Tế Phật: Hôm nay dạo ngục vạc Dầu Sôi, phía trước Ngục Quan sẵn sàng nghênh đón
chúng ta.
Dương Sinh: Quả nhiên phía trước có một đoàn người ngựa cảm tình chan chứa. Phải
mau hướng về phía Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân làm lễ ra mắt.
Ngục Quan: Chớ quá chấp kễ. Bữa nay Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh tới thăm chúng
tôi rất hoan nghênh. Bản ngục có tên gọi là "Ngục Vạc Dầu Sôi" thuộc quyền cai
quản của Đệ Thất Điện. Hai vị phụng chỉ tới đây trải bao gian lao vất vả, đó
thực là công quá lớn.
Tế Phật: Ngục Quan quá khen, quí vị cũng lao khổ vì suốt ngày phải canh gác tội
phạm chẳng được an nhàn thư thái chút nào.
Ngục Quan: Chúng tôi chỉ biết cố gắng hoàn thành trách nhiệm để mong cảm hoá tội
hồn, cho nên rất hao tổn tinh thần. Nếu như chúng tôi được vinh hạnh cùng quí vị
thực hiện công đức khuyên đời, độ người bằng cách soạn sách lập thuyết thì hẳn
là thay trời giáo hoá. Xin mời hai vị theo chúng tôi vào trong.
Dương Sinh: Đã tới cửa ngục, hai bên có âm binh canh gác nghiêm ngặt, chỉ có vào
chứ không có ra e rằng thời gian giam giữ rất dài. Trong ngục bày biện sơ sài,
nhìn không được đẹp mắt. Có một cái nồi cực lớn hình thù giống như nồi luộc heo,
luộc rau ở các làng quê, phía dưới âm binh đốt lửa cháy đỏ rực, trong nồi dầu
sôi sùng sục giống hệt cảnh dương gian thường nói là "vạc dầu sôi". Âm binh áp
giải tội hồn tới gần dùng đinh ba đâm rồi thảy vào nồi, tội hồn chỉ kịp thét lên
được một tiếng sau đó chìm ngay xuống đáy nồi. Dầu sôi thì vô tình, chỉ còn trơ
lại bộ xương trắng xoát. Xin hỏi Ngục Quan hình phạt này là loại hình phạt gì?
Tội hồn phạm laọi tội ác nào mới phải vào đây chịu hình phạt này?
Ngục Quan: hình phạt quăng tội hồn vào nồi dầu sôi là hình phạt nặng nhất của Đệ
Thất Điện. Dương gian nói "thảy vạc dầu" đó là hình phạt cực nghiêm để trị yêu
tinh ác quỉ, nay bản ngục cũng dùng hình phạt này để trừng trị những kẻ đã phạm
tội cực ác ở thế gian, cho nên các tội hồn sau khi chết mà phải tới đây chịu cực
hình thì đều là những kẻ lúc sống đại gian ác.
Dương Sinh: Phần lớn họ đã phạm vào những tội gì?
Ngục Quan: Lúc còn sống các tội hồn đó đã phạm vào các tội như là: cướp trộm, đả
thương, giết người, loạn luân, tham nhũng, đánh thuốc dộc, hại tính mạng người,
phản bội lẽ trời. Chết đi phải chịu các hình phạt ở các ngục khác xong còn phải
tới đây chịu hình phạt tối nghiêm trọng này.
Dương Sinh: Ngoài các tội phạm kể trên còn có tội phạm nào khác tới đây chịu
hình phạt này không?
Ngục Quan: Nếu như lúc sống chuyên dùng pháp thuật hại người, sau khi chết các
tội hồn đó cũng phải tới đây nhận lãnh hình phạt này để cho tà pháp tiêu tan.
Dương Sinh: Thưa Ngục Quan có thể ra lệnh cho âm binh áp giải vài tội hồn chưa
bị ném vô nồi tới đây để tôi phỏng vấn họ được chăng?
Ngục Quan: Được lắm. Lệnh Tướng Quân dẫn mấy tội hồn tới đây để có cung khai.
Tướng Quân: Xin vâng lệnh... Tội hồn đã tới, mời Dương Thiện Sinh tra hỏi.
Dương Sinh: Xin hỏi bà cụ già, cớ sao cụ phải tới đây chịu hình phạt này?
Tội Hồn: Tôi lúc sống thuộc loại tú bà ở lầu xanh, suốt cuộc đời tôi chuyên dụ
dỗ, dẫn mối gái tơ, kiếm tiền bằng cách buôn da bán thịt, sau khi chết bị xử đày
tại ngục Bùn Phân Nước Tiểu rồi Ngục Moi Ruột và bây giờ là ngục Vạc Dầu Sôi.
Minh Vương thực quả tàn nhẫn vô cùng, tôi lúc sống chỉ biết làm tiền, không tin
quỉ thần, sau khi chết mới rõ khó thoát khỏi cảnh địa ngục.
Ngục Quan: Ngươi là kẻ lòng dạ quá bất nhân, chẳng hề nghĩ tới cảnh đồng bào
cùng chung cốt nhục, mi dùng tiền mua bán phụ nữ, đẩy người xuống giếng. Đạo đức
nhân tính của mi đâu? Nếu không đảy mi vào nồi dầu sôi mà luộc thì những mầm
mống ác độc trong cơ thể mi làm sao trừ tuyệt nổi?
Dương Sinh: Xin hỏi anh kia, tuổi tác còn trẻ cớ sao lại vào đây chịu hình phạt
đau đớn này, trên mình lại còn lưu dấu tích máu me, hai tay ôm khư khư vết
thương, luôn mồm kêu đau nhức, đầu óc rối bời, hình dung đúng là kẻ bất lương.
Chẳng rõ lúc sống đã phạm phải tội gì tới nỗi sau khi chết phải đến đây chịu
hình phạt này?
Tội Hồn: Bây giờ tôi thật là hối hận, lúc sống chẳng chịu học hành, suốt ngày
lập bè lập đảng với đám du côn, đánh bài bị thua quịt nợ, cuối cùng sinh ra trộm
cướp chẳng may sa lưới, toà án xử tử hình, bị hành quyết mà thác, hiện thời vết
thương do đạn bắn vẫn còn đau nhức. Sau khi chết lại bị đày khắp các ngục cuối
cùng còn giải giao qua Đệ Thất Điện. Diêm Vương vô tình phán đày tôi tại Ngục
vạc Dâu Sôi. hiện thời luôn luôn kinh hoàng khủng khiếp, chẳng được một phút yên
ổn, hy vọng người đời phải biết yên phận giữ mình. Vật cướp của người nuốt chẳng
trôi, ăn chẳng nổi, uổng công thầy dạy dỗ, công cha mẹ sinh thành dưỡng dục, ơn
nghĩa sâu dày chẳng biết tới bao giờ mới đền đáp nổi?
Tế Phật: Phép nước chí công, tại mi đi tìm đường chết, cuối cùng phải ăn kẹo
đồng mà thác. Nếu mi còn được một chút lương tri, kiếp sau phải ráng lo tu.
Dương Sinh: Xin hỏi vị này, cớ sao người lại phải tới đây thụ hình?
Tội Hồn: Lúc sống, trong một phút quẩn trí vì say sưa tranh giành giết luôn hai
người một lúc, bị toà án tử hình. Sau khi chết bị hành hạ cùng khắp các điện,
nay lại giải giao qua ngục này, thấy dầu sôi sùng sục trong nồi, thịt da tiêu
tan, hối hận chỉ vì một phút sai lầm mà tạo thành đại tội.
Ngục Quan: Giết người thì phải đền mạng, lời nói từ xưa quả là sáng suốt, dưới
tay mi đã từng coi mạng sống con người như con kiến, bây giờ bị bỏ vạc dầu sôi
há mi lại sợ sao? Nếu như không quăng mi vào vạc dầu sôi thì máu của kẻ bị mi
giết chẳng thể khô.
Dương Sinh: Xin hỏi ông lão này cớ sao ông phải vào đây?
Tội Hồn: Lúc sống tôi học rành về đạo pháp, đặc biệt một mình được thầy bí
truyền cho, người đời thường gọi là "Phù Tử Tiên". Phàm hễ ai có tiền trả là tôi
làm phù phép khiến cho tinh thần người ta thác loạn, gia đình bất an, phá hoại
hôn nhân, không một hành vi nào bỏ sót. Lại còn dùng tà thuật làm cho phụ nữ mê
mẩn tâm thần để bày trò gian dâm, lúc sống có thể nói là vô cùng sung sướng. Sau
khi chết Diêm Vương cả giận phán xử tội tôi, tôi liền sử dụng tà thuật đấu phép,
không ngờ âm binh ở địa ngục đoàn kết đánh lại, khiến tôi đại bại, bữa nay bị
quăng vào vạc dầu sôi, tà pháp tiêu tan chẳng còn gì. Ôi! Có pháp mà không sử
dụng theo đường chính trực, sau khi chết thật là quá thảm.
Ngục Quan: Mi phản đạo phản trời, mượn tà thuật hại người quả là tên ma đạo, âm
phủ tối kỵ thuật sĩ làm phép hại người, phàm thuật sĩ bất chính không một kẻ
trốn thoát khỏi hình phạt quăng vạc dâu sôi. Khuyên những kẻ học pháp ở thế
gian, tôn kính giữ đúng đem sở học cứu người giúp đời, ắt sau khi chết được gia
nhập đạo thần, đạo tiên, còn không ắt sẽ nhập vào ma đạo, không thể không thận
trọng.
Dương Sinh: Xin hỏi Ngục Quan tội hồn vừa bị quăng vạc dầu sôi chỉ còn bộ xương,
nếu vớt ra dùng nước hoàn hồn tưới lên, xác thân trở lại nguyên hình, nếu như
lại bị thụ hình lần nữa thì cảm giác của tội hồn sẽ ra sao?
Ngục Quan: Bị thẩy vào vạc dầu đâu đớn vô cùng và thân không còn dính da, cảm
giác giống hệt kẻ bị dìm vào nước trước tiên ngạt thở, sau đó nóng bỏng rồi ngất
lịm. Phàm kẻ có ma thuật, tà pháp lúc ném vào vạc dầu sôi sẽ bị "phá công".
Tế Phật: Vì thời giờ đã trễ chúng ta chuẩn bị trở lại Hiền Đường.
Dương Sinh: Đa tạ Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân đã tiếp đãi vô cùng nồng hậu.
Xin cáo từ .
Ngục Quan: Lệnh cho các Tướng Quân hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Tế Phật: Mau lên đài sen.
Dương Sinh: Con đã sẵn sàng. Mời ân sư trở lại Hiền Đường...
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI BỐN MƯƠI BẢY
DẠO NGỤC CẮT LƯỠI RẠCH MÉP
Phật Sống tế Công
giáng ngày 3 tháng 2 năm Mậu Ngọ (1978)
Thơ:
Thế sự phân phânbất luận tranh
Tâm điền miễn thuế ứng cần canh
Trường giang hậu lãng thôi tiền lãng
Chuyển nhãn hữu văn lạc diệp thanh.
Dịch:
Thế sự tranh đua chán mớ đời
Ruộng lòng thuê miễn cấy đi thôi
Sóng sông lớp lớp giành nhay chảy
Chớp mắt còn nghe tiếng lá rơi.
Tế Phật: Xem xong bài thơ trên hẳn có người cho ta là kẻ tiêu cực, lời ta nói là
lời của thường nhân, ta cũng chẳng có cách chi biện bạch. Tích cực như lên thang
lâu, nếu chỉ có tiến bước thôi thì đến khúc cuối, thang cao trăm thước mà chẳng
chịu dùng, thì chắc chắn sẽ té dập xương nát thịt. Do đó người đời phải hiểu
rằng một kiếp sinh thật là ngắn ngủi, nhà cao cửa rộng ta chỉ tạm trú ít chục
năm trời, chẳng ai là kẻ ở mãi được. Một sớm tứ chi buông xuôi, muôn việc đều
ngưng, con cháu chỉ còn biết mời ta đi nơi khác. Sóng Trường Giang lớp sau xô
lớp trước, cuộc đời thì người mới sẽ phải lên thay người cũ, nếu như chẳng sớm
tỉnh ngộ, đợi tới lúc toàn thây phủ bụi trần ai, không còn nhận diện được mình,
khi đó hẳn là đã thành người cũ của thời xa xưa. Bữa nay chuẩn bị dạo địa ngục,
Dương Sinh lên đài sen.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Miếu phía trước tiếng tụng kinh nghe vang rần, tiếng
nhạc tiễn người về Tây Phương Cực Lạc nghe hiu hắt.
Tế Phật: Tiếng tụng kinh giục người thức giấc người chết chẳng trở về. Thôi
chúng ta dạo âm phủ... Đã tới nơi, Dương Sinh xuống đài sen.
Ngục Quan: hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh thuộc Thánh Hiền Đường tới
thăm bản ngục. Bản ngục là ngục Cắt Lưỡi Rạch mép trực thuộc sự cai quản của Đệ
Thất Điện, hai vị Tiên Trưởng phụng mệnh viết sách, công lao sâu dầy quả đáng
khâm phục, khâm phục.
Dương Sinh: Ngục Quan quá khên chỉ sức một mình tôi đảm đương sao nổi, việc dạo
âm phủ viết sách chính là nhờ ân sư Tế Phật đưa đường dẫn lối, cùng sự chỉ giáo
của chư vị Ngục Quan, lòng tôi hẳn còn mãi cảm kích, bữa nay tới quí ngục, kính
mong Ngục Quan ban cho nhiều phương tiện.
Ngục Quan: Đương nhiên bao giờ chúng tôi cũng mở rộng cửa giúp đỡ. Xin mời hai
vị theo tôi vào trong ngục xem xét kỹ càng.
Dương Sinh: Đa ta... Đã tới cửa ngục lính cnah hai bên, hàng ngũ chỉnh tề chào
đón. Trong ngục chợt có tiếng kêu than ai oán, âm binh liền dùng móc sắt nhắm
miệng tội hồn thọc vào, bẩy lên rồi quặc đầu móc vào lưỡi tội hồn kéo ra, tội
hồn thất thanh la lớn, sau đó âm binh dùng dao sắc cắt lưỡi tội hồn đứt lìa, máu
tươi chảy đầy ngực, tới đây âm binh vẫn chưa buông tha lại còn dùng dùi đâm
thửng má, lấy dây kẽm luồn qua buộc vào cây cột. Tội hồn rên rỉ lát sau ngất
lịm, loại hình phạt này thật quá thê thảm và khốc liệt.
Ngục Quan: Lưỡi ăn thông với tim, lưỡi bị cắt tim đau đớn muôn phần, kẻ nào bị
hình phạt này chân tay giãy giụa, hậu môn vãi cứt, vãi đái.
Dương Sinh: Âm ti chế hình phạt sửa trị tội hồn đều coi bịnh rồi mới bốc thuốc,
thật quả là linh diệu. Chưa rõ những tội hồn này đã phạm phải những tội gì?
Ngục Quan: Những kẻ tới bản ngục thụ hình đều là phạm tội về: "khẩu nghiệ" hoặc
"thất khẩu đức". Ta ra lệnh cho tội hồn phải tường thuật lại những hành vi thất
đức lúc sinh tiền, để chép vào sách Địa Ngục Du Ký hầu khuyên răn người đời.
Dương Sinh: Đa tạ Ngục Quan quá chu toàn.
Ngục Quan: Tội hồn đã tới, Dương Thiện Sinh hãy tra hỏi họ cho thật kỹ càng.
Dương Sinh: Xin hỏi bà lão cớ sao bà lại phải tới đây chịu tội?
Tội Hồn: tất cả chỉ tại cái miệng của tôi không tu mà ra nông nổi đấy thôi, còn
riêng tôi có phạm tội lỗi gì đâu?
Tế Phật: Miệng lưỡi giết người mà không phải phạm tội hay sao? Người chẳng nói
thật sẽ bị gia tăng hình phạt.
Tội Hồn: Thưa đúng, tôi xin khai rõ tất cả, lúc sống tôi ghen ghét mọi người,
thường xúi bẩy cho người ta xa cách nhau, thường dùng lưỡi làm thương tổn kẻ
khác, khiến cho gia đình họ bất hoàn anh em xa cách, cha mẹ già không người
phụng dưỡng, còn ngoài ra không hại ai khác.
Ngục Quan: Ngươi là kẻ từng được thế gian đặt cho tên gọi là "Mụ lưỡi dài", là
phận nữ lưu mà không lo tu "khẩu đức", chuyên ăn xổng nói càn, đã phá hoại hạnh
phúc gia đình kẻ khác, lại còn rượu thuốc trầu cau ăn uống hút sách luôn miệng.
Lời nói của mi thường chẳng đắn đo suy nghĩ, lúc thì gào thét, lúc thì ghé sát
miệng vào tai đàn ông thầm thì tiếng nhỏ, tiếng to, những lời nói ra đều là
tiéng thị phi không chính đáng. Lưỡi mi có nọc độc cho nên phải cắt đi, khiến mi
giờ đây câm miệng chẳng thể nói năng, phải lo tu lại "khẩu đức".
Tế Phật: Lưỡi sắc như dao, địa ngục cắt lưỡi phụ nữ khá nhiều, vì phụ nữ "tiểu
khí đa ngon" rất dễ gây sống gió nếu sinh làm phụ nữ tính không nhu mì, nói năng
như hét vào tai người khác, vì tiếng nói của mình mà thành đắc tội với người,
nếu như không tự kiểm thảo sửa sai, sau khi chết ắt bị quỉ đầu trâu mặt ngựa
dùng dao xẻo bớt lưỡi, để được nhẹ nhàng mỗi khiphát ngôn. Mong phụ nữ ở thế
gian nên nói năng dịu dàng hầu trnáh làm mất hoà khí với mọi người.
Dương Sinh: Xin hỏi vị, vị pham tội gì? Cớ sao lại bị vào đây chịu hình phạt
này?
Tội Hồn: Tôi lúc sống tính tình nóng nảy, mỗi khi gặp chuyện bất bình hoặc lời
nói không vừa lòng, liền mạng miệng chửi bới om sòm; chẳng cứ là bậc tôn trưởng
hoặc tổ tiên kẻ khác tôi đều chửi rủa chẳng sợ một ai. Ngoài ra tôi chẳng làm
một điều gì bất nhơn ác đức, nhưng sau khi chết Diêm Vương đã chẳng tha thứ cho
tôi, lại còn kết tội là tôi đã dùng miệng lưỡi ác độc chửi người, xấu xa chẳng
thể dung thứ, phám giam ngục này, khiến tôi phải bị cắt lưỡi rạch miệng thống
khổ muôn phần. Hy vọng người đời hãy nhìn tấm gương của tôi, chớ có chửi người
bừa bãi, nếu như không sửa tính, sau khi chết, chắc chắn sẽ bị đày xuống địa
ngục thống khổ chẳng thể kêu than.
Ngục Quan: Tục ngữ nói "tâm ác vô nhân kiến, khauảc hữu nhân thính" (Tâm ác
không ai thấy, Miệng ác có người nghe) ác khẩu dễ đắc tội với người, hay rước
lấy những điều thị phị thường làm mất hoà khí, do đó mới nói "Đao thương dị hợp,
ngôn thương nan tiếu (Dao cắt dễ lành, lời nói khó quên. Lúc chửi mắng người thì
dưới mắt mình thấy không còn ai, thô lỗ chẳng khoan dung, đối xử với người càng
thậm tệ, cho nên nói "Ngũ luân bất phân" chẳng rõ năm mối cương thường vua tôi,
cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè, đó cũng là một cái tội lớn lắm. Đã là kẻ tu
đạo, lời nói lại càng cần phải hợp ý hợp tình chớ nói xàm nói bậy, nếu không
"khẩu đức" bại hoại, sau khi chết ngục cất lưỡi rạch mép ở dưới âm phủ hẳn là đã
dành chỗ sẵn.
Dương Sinh: Xin hỏi vị tăng sĩ nầy, có phải vị xuống đây để tụng kinh không?
Tội Hồn: A DI ĐÀ PHẬT "kinh khổ", "kinh khổ" nhớ lại thuở sinh tiền ham mộ Phật
pháp vĩ đại, nên xuất gia thu giới làm tăng, chăm lo nghiên cứu kinh điển nên
tâm có chúc sở đắc, bèn viết sách thuyết pháp, đăng đàn giảng đạo, thường phê
bình chê bai các tôn giáo khác, chỉ cho Dức thế Tôn là vĩ đại, hết thẩy Thần
Tiên, Vương Gia, Ma Tổ đều coi là thần nhỏ, là ma trời, là ngoại đạo, không phải
là đạo Phật chân chính của tôi, nên chẳng cần tin tưởng tôn kính. Vì có rất
nhiều người hấp thụ sự chỉ giáo của tôi nên từ đó tôi coi thường thần thánh phỉ
báng đạo khác, tôi chiếu theo kinh điển ghi chép mà nói nên chẳng biết một điểm
chân linh cũng bị buộc ràng, không cách thoát thân, nguyên nhân cũng bởi tại chư
vị Thiên Tiên Thần Thánh trói buộc, tội phỉ báng rất nặng, nên tôi mới bị đày
xuống địa ngục, chẳng thể về được Tây Phương Cực Lạc. Kính xin Phật Sống Tế Công
hoan hỉ cứu độ tôi.
Tế Phật: Mi là tên đệ tử bất xứng, Phật chẳng có loại đệ tử như mi, Phật pháp
bình đẳng chỉ vì niên kỷ và hoàn cảnh của các vị Thần Thánh tu thành chính quả
đó khác nhau cho nên các tiếng tôn xưng mới bất dồng. Các Ma Tổ Thần Thánh Tiên
đều cứu độ đời độ người hoặc tu chân luyện tính, đắc đạo cao nhân, hoặc vũ hoá
qui thăng Đại La, tiêu dao thánh cảnh giống hệt Phật nói về thế giới cực lạc.
Nhân thời mạt pháp quá nhiều kẻ tu đạo tự cho mình là thông đạo, tu tập tín đồ,
sửa chừa kinh điển, viết sách đầy thiên kiến làm cho tôn giáo phân tranh, khiến
kẻ mộ đạo nghe theo một cách mù quáng mới sinh ra nghi kỵ các tôn giáo khác,
cùng người mà chẳng chung lòng (đồng nhân nhi bất đồng tâm) mi đã làm tung bụi
đỏ, dậy sóng triều, tội chẳng thể tha. Mong thế gian làm tăng dạy đạo, tu đạo,
chỉ lo minh tâm kiến tánh, chớ hề gây chuyện thị phi, phàm những kẻ thuyết pháp
mà ngậm máu chê bai pháp người, viết sách dẫy đầy thiên kiến nếu như không sớm
đốt sách, quăng bút, súc miệng giảng chính kinh, sau khi chết chắc chắn sẽ nhận
lãnh hình phạt cắt lưỡi, rạch mép, bắt ngày ngày thầm niệm "khổ kinh" để thưởng
thức cái mùi vị dùng miệng lưỡi hại người. Bữa nay thời giờ đã trễ, Dương Sinh
trở lại Hiền Đường.
Ngục Quan: Có điều chi thất thố, xin lượng thứ. ra lệnh các Tướng Quân hàng ngũ
chỉnh tề đưa tiễn.
Dương Sinh: Cảm tạ Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân, thầy trò chúng tôi xin cáo
biệt. Thưa ân sư, con đã sẵn sàng, mời thầy trở lại Hiền Đường...
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI BỐN MƯƠI TÁM
DẠO ĐỆ BÁT ĐIỆN LUẬN BÀN CÙNG BÌNH ĐẲNG VƯƠNG
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 16 tháng 2 năm Mậu Ngọ (1978)
Thơ:
Thiền tâm ấn nguyệt ấn thâm đàm
Luyện tính tu tương ngọc bản tham
Thích thị niêm hoa truyền diệu quyết
Đạt Ma đông độ chỉ tam tam.
Dịch:
Hồ sâu lòng đạo bóng trăng in
Bàn ngọc luyện tới toạ thiền
Đức Phật cầm hoa truyền diệu pháp
Đạt Ma vượt biển phá mê lầm.
Tế Phật: Ánh trăng rạng ngời loá cả mắt, đó là đặc tính của ánh sáng. Người tu
hành tâm thiền sáng như ánh trăng chứng tỏ lòng không vướng bụi trong trẻo như
nhau. Ánh trăng tuy vắng lặng nhưng không ảm đạm chết chóc, lấy nước hồ trong
lắng làm gương thì sẽ soi tỏ được nguyên lai bổn tánh. Người luyện tánh, dù thân
ở giữa chốn bụi trần nhưng nhờ thâu giữ được chân tánh không để nó thoát ra
ngoài. Cố trụ trì nơi phản ngọc, ngồi giữa bụi bậm cũng như ngồi trên phản ngọc
vì linh khí có thể xuyên thấu cát bụi. Người đời đi đứng nằm ngồi tuy có phản
gỗ, phản đá, giường sang đặt thân trên đó, nhưng bụi bậm chẳng thể xa rời dù cho
có mấy hút bụi, thuốc tẩy, bột giặt, áo quần ngày thay mấy bộ, đủ thấy bụi bậm ở
nơi biển khổ nhiều biết mấy. Thích Thế Tôn nơi núi Linh Sơn cầm bông hoa giơ
lên, Ca Diếp mĩm cười, hoa này không phải là hoa phàm mà là hoa tâm bừng nở. Bữa
nay ta vung múa ngọn bút giáng cơ, kẻ mê nghi là ta giả bộ lòng chẳng tin, nhưng
kẻ trí thì lại giác ngộ, vì cơ bút chỉ là cơ tâm của chính ta, trong tĩnh dấy
động, trong cát đãi vàng, kẻ biết mĩm cười dễ dàng được báu vật như trở bàn tay.
Đạt Ma tổ sư vượt biển tới đây, ngài chỉ thẳng vào tâm chúng sinh mà dạy: "ba
lần ba là chín" ý bảo "dương cực quí nhất" dương cùng cực quay về một, chốn
nguồn cội chân tâm, đồng thời cung còn cho biết thêm là vạn pháp đều quay về một
mối. Chúng sinh si mê chẳng chịu mở to con mắt nên cho là Đạt Ma thò tay túi
mình móc tiền, ha ha! Trong túi chỉ có mấy miếng giấy lộn chẳng phải tiền. Nhưng
liệu giữ được của cải chăng hay là sẽ bị con cái đời sau phá nát ? Hẳn là lời
nói của tổ sư muốn khuyên nhủ rằng: hãy hăng hái cắt bỏ tâm phàm thay bằng tâm
Phật.
Dương Sinh: Thưa lời thầy dạy quá dài, con sợ người đời không coi trọng mà bỏ
phế chăng?
Tế Phật: Vật phế thải cũng có giá trị, con chẳng thấy đám rác trên xe, có kẻ bới
lượm được vàng sung sướng đấy ư? Kẻ vất người lượm, tuyệt đối không có hao phí,
nhưng chỉ mắt huệ mới biết rõ giá trị của phẩm vật. Thí dụ ở trong một quốc gia
vàng người dân sẽ coi vàng như cát đá không biết là nó quí giá. Cho nên cứ quá
nhiều quá quen là đều bị bỏ quên coi rẻ. Bữa nay mình chuẩn bị dạo âm ti.
Dương Sinh: Thưa con chưa rõ đi đâu?
Tế Phật: Dạo Đệ Bát Điện, mau lên đài sen chuẩn bị khởi hành...
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, con đã lên đài sen, mời ân sư khởi hành...
Tế Phật: Đã tới nơi, mau xuống đài sen.
Dương Sinh: Con đã xuống rồi.
Tế Phật: Trước mặt là Đệ Bát Điện, ngoài cửa có người bỏ vào trong thông báo.
Dượng Sinh: Diêm Vương cùng Tiên Quan đã xuống thềm nghênh đón, trên điện có tấm
biển đề "Đệ Bát Điện Bình Đẳng Vương". Diêm Vương mình mặc lông bào vẻ mặt thật
trang nghiêm, đang bước xuống thềm... Kính chào Bình Đẳng Vương, tôi là Dương
Thiện Sinh thuộc Thánh Hiền Đường ở Đài Trung, bữa nay theo thầy tới quý điện,
kính mong Diêm Vương giúp đỡ phương tiện.
Minh Vương: Miễn lễ, mau đứng lên, hai vị khổ cực vì việc viết sách mà phải lao
nhọc thân hành tới cõi âm ti, mau theo tôi lên điện.
Dương Sinh: Cảm tạ Diêm Vương. Ngoài điện người ta tụ tập đông nghẹt đang chờ
đợi tới lượt mình, chợt nhìn thấy chúng tôi đến đều lộ vẻ kinh ngạc, có kẻ bị âm
binh đánh đập kêu gào thảm thiết.
Diêm vương: Mời Tế Phật cùng Dương Sinh ngồi, tôi tạm đình việc xử án, rất mừng
được cùng hai vị đàm đạo. Tướng quân mang trà ra đây.
Tướng Quân: Thưa vâng...Kính mời Phật Sống Tế Công cùng Dương Thiện Sinh dùng
trà, xin chớ làm khách.
Minh Vương: Mời dùng tà, thời gian đợi đã lâu, bữa nay hai vị mới tới thăm bản
điện, quả thật là vinh hạnh cho chúng tôi nhiều lắm.
Tế Phật: Mỗi lần dạo cõi âm thời giờ đều có hạn, việc viết sách Địa Ngục Du Ký
lại đòi hỏi mất nhiều thời gian. May mắn nhờ các vị tín hữu ở Thánh Hiền Đường
sớm hôm chăm chỉ, không quản gian lao, việc viết sách mới có thể vượt qua được
những trở ngại một cách dễ dàng. Tuy chậm mà chắc, việc lớn chẳng thể sớm xong.
Cảm phiền Minh Vương.
Dương Sinh: Thầy trò chúng tôi tới âm phủ, nhờ sự chiếu cố của Minh Vương cùng
chư vị Tiên Quan trong lòng rất lấy làm cảm kích, chỉ còn biết tự nguyện vượt
thắng mọi trở ngại.
Minh Vương: Hành đạo không phải là việc dễ dàng, từng giây từng phút kiên trì
phấn đấu, mỗi li mỗi tấc không được sai chệch . Nhất thời hành động sái quấy,
muôn thuở chẳng thể cứu vãn, tâm tu còn dấy động thì ta chẳng thể gần đoạ được.
Khuông buông bỏ mới có thể sửa chữa, chịu sữa chữa mới bớt sai trái. Giữ được
cái tâm tu đạo như vậy tức là đã đạt được cái đoạ ở giữa cõi đời này, và có đạt
được đạo hay không lại hoàn toàn tuỳ thuộc ở chính chúng ta.
Dương Sinh: Xin bái lãnh lời vàng của Minh Vương, bữa nay chúng tôi tới đây kính
mong Minh Vương cho biết rõ tình hình ở Đệ bát Điện để khai sáng chúng sanh.
Minh Vương: Quí lắm, tôi cai quản Đệ Bát Điện, chuyên sửa trị những tội hồn phàm
quá nhiều tội lỗi mà bảy điện trước đã xử nhưng chưa hết, do đó mới giao cho bản
điện lo bổ túc thêm hình phạt. Bản điện có ngục chính là "Đại Nhiệt Não Đại Địa
Ngục" (Địa Ngục lớn cực nóng bỏng não nề) ngoài ra còn thiết lập 16 địa ngục nhỏ
phụ thêm để trừng phạt tội phạm ở thế gian. Gởi lời nhắn nhủ người đời mau mau
lo giữ mình giữ phận, tận tâm lo học đạo người, tận lực tu đạo trời hầu giác ngộ
chân lý, tìm hiểu sinh từ đâu tới, chết sẽ về đâu, mới mong tránh khỏi sẽ về
đâu, mới mong tránh khỏi rớt xuống địa ngục chịu luân hồi khổ đâu.
Dương Sinh: Tôi có một vấn đề xin Minh Vương chỉ dạy, vì có rất nhiều người hỏi
tại sao chỉ thuật lại lời khai mà không cho biết tên họ cùng địa chỉ của tội
hồn. Nếu như chi tiết này được công bố để ghi vào sách Địa Ngục Du Ký thì hẳn là
việc răn đời sẽ có công hiệu lớn. Bỡi lẽ hầu hết người đời bây giờ đều chỉ tin
vào những bằng chứng đích xác, bởi vậy không có những tài liêu thực để họ sưu
tầm tra cứu thì e rằng họ sẽ bán tín bán nghi, sự tin tưởng sẽ bị giảm sút rất
nhiều. Kính xin Minh Vương giải đáp sự kiện này cho thật rõ ràng để phá tan sự
nghi hoặc của nhiều người.
Minh Vương: Việc người đời tìm hiểu tội hồn ở âm phủ là việc giới hạn, bởi vậy
Ngọc Chỉ của Ngọc Đế dặn rằng chỉ được tiết lộ hành vi phạm pháp của tội hồn còn
tên họ và địa chỉ phải giữ kín. Cho nên dù biết là nếu đem tên họ và địa chỉ ghi
vào sách, việc răn đời sẽ có hiểu quả hơn chúng tôi cũng không dám. Bởi lẽ làm
như vậy là đem tên họ kẻ ác ra rêu rao, con cháu họ sẽ quá tủi hờn mà tâm trí
sinh bấn loạn, khiến việc khuyến thiện trở thành phản tác dụng, thiện chí khuyên
đời hẳn là thất bại. Do đó bắt buộc chúng tôi phải rất thận trong giữ kín tên họ
và địa chỉ của các tội hồn.
Tế Phật: Quân tử vẫn mãi quân tử, tiểu nhân lại hoàn tiểu nhân, kẻ phạm tội
chẳng cần biết tên họ, địa chỉ, cứ phạm pháp là bắt ngay, còn chuyện khác tính
sau. Việc tin hay không tin có thiên đường địa ngục lúc còn tại thế cũng không
quan trọng bởi lẽ nếu hành động bất nhân ác đức, một sớm rơi vào tay Diêm vương
rồi mới tin thì đã muộn. Thời giờ đã trễ, ngày khác chúng ta sẽ trở lại thăm các
ngục,chuẩn bị trở lại Hiền Đường.
Dương Sinh: Dạ dạ, vì thời giờ đã trễ, cảm tạ Minh Vương đã hết lòng chỉ dạy
chúng tôi xin cáo từ.
Minh Vương: Lệnh cho văn võ bá quan hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Dương Sinh: Con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư trở lại Hiền Đường.
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI BỐN MƯƠI CHÍN
DẠO ĐỊA NGỤC XE CÁN
Tế Công Hoạt Phật
Giáng ngày 1 tháng 3 năm Mậu Ngọ (1978)
Thơ:
Tu chân ngộ đạo thủ hoàng đình
Đả phá mê đoàn mạch lạc kinh
Qui hạc hưỡng thần thường lập định
Nhân vô dục niệm tự thông linh.
Dịch:
Chân lý đạo màu đạt thức tâm
Khai thông kinh mạch hết mê lầm
Dưỡng thần rùa hạc thân an định
Diệt dục chúng sinh mở trí phàm.
Tế Phật: Vâng lệnh Thánh chỉ tới trung tuần tháng tám mùa thu năm nay phải hoàn
tất sách Địa Ngục Du Ký, khiến giờ đây tâm ta bồn chồn vô tả. Thời hạn đã gần
kề, nếu như không chăm lo dạo âm phủ để xem xét tình hình, chiếu chỉ hết hạn âm
phủ không mở cửa hẳn là Dương Sinh không còn cách nào vào được.
Dương Sinh: Du ngoạn âm phủ chẳng có chi là hứng thú, chỉ ngại một nỗi lỡ chiếu
chỉ hết hạn mà sách chưa xong thì nguy lắm. Do đó, từ nay phải hết sức thận
trọng.
Tế Phật: trả hết nợ thì thân mới mong nhẹ nhõm, trách nhiệm đối với chúng sanh
nếu như trả xong hẳn là ta được thanh nhàn. Người đời chẳng thể thấu hiểu được
rằng nếu như ta không độ nổi chúng sinh thì cái danh hiệu Phật Sống của ta cũng
chẳng còn!
Dương Sinh: Thưa vì lẽ gì?
Tế Phật: Bỡi lẽ Phật chẳng rời chúng sanh, nếu rời được thì chẳng còn là Phật.
Tên Phật chỉ là tên mượn, chúng sinh cũng vậy, chớ để cho hình danh sắc tướng mê
hoặc. Thời giờ đã trễ chúng ta chuẩn bị dạo âm ti, mau lên đài sen.
Dương Sinh: thưa con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường...
Tế Phật: Đã tới, mau xuóng đài sen.
Dương Sinh: Con xuống rồi, không rõ bữa nay dạo thăm ngục nào?
Tế Phật: Con thấy phía trước lửa cháy rực trời, đó là "Đại Nhiệt Não Đại Địa
Ngục", Địa Ngục Lớn Nóng Bỏng Não Nề.
Dương Sinh: Quả đúng, vì khi sức nóng ào tới, cảm giác vô cùng bỏng cháy, thưa
con muốn bỏ nơi này dạo thăm nơi khác.
Tế Phật: Được, lần trước chúng ta thăm Đại Địa Ngục Nóng Bõng Não Nề, nay đem so
với ngục này giống hệt nhau, chỉ khác một chút là lửa cháy mạnh hơn thôi. Con
hãy theo thầy tới ngục khác.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Âm binh áp giải tội hồn đi đi lại lại, dọc đường luôn
miệng chửi mắng. Chỗ kia trông giống như chốn pháp trường, xin hỏi ân sư đám âm
binh kia tại sao có lúc thì đầu trâu mặt ngựa, có lúc lại giống vẻ người thường,
con không rõ lý do?
Tế Phật: Âm binh tục gọi là "Hắc bạch vô thường" (đen trắng không chừng), "Thất
gia bát gia" (năm cha ba mẹ) hay Phạm vô cứu, tạ tất an" (gặp khó thoát tránh là
hay). Mỗi khi gặp đám người phạm tội, âm binh đều mặt xanh nanh vàng nạt nộ chửi
bới, thật là hải hùng. Kẻ yếu bóng vía ắt kinh hồn tán đởm, chân tay run rẩy
giống như bị ma đuổi. Người vô tội nếu gặp nó mà nói được câu "ta chẳng sợ" thì
không gặp trở ngại gì cả, do đó có câu "bất tố khuy tâm sự, tam canh sao môn tâm
bất kinh" (trong lòng không có điều chi áy náy thì canh ba dẫu có bị kêu cửa
cũng chẳng kinh hãi). Kẻ phạm tội ở dương gian gặp cảnh sát thì giống như gặp
quỉ sứ sợ đến vãi phân té đái, cảnh sát có còng có súng, quỉ vô thường cũng có
khí giới bằng sắt, bằng thép. Người yên phận giữ mình thấy họ trái lại tâm an
trí vững, gặp cảnh sát có cảm giác được che chở một cách thân mật, ngược lại, kẻ
bị truy nã gặp họ như gặp sát tinh, chạy trốn là hay hơn cả. Cho nên người thiện
chẳng sợ âm binh, kẻ ác thấy nó lòng run rẩy. Đã tới Xa Băng Tiểu Địa Ngục (Địa
ngục nhỏ xe cán), chúng ta hãy vô trong thăm.
Tướng quân: Thần Thánh nào đây mà lại dám dẫn người phàm xâm nhập. Hãy đứng lại.
Tế Phật: Tôi là Tế Công, phụng chỉ dẫn người phàm dạo xem địa ngục để khuyến hoá
thế nhân, mau vào trong thông báo, không được trái lệnh.
Tướng Quân: Nguyên lai thì ra là lão hoà thượng Phật Sống Tế Công. Xin ngài nán
đợi một chút để tôi vô trong thông báo.
Dương Sinh: Họ không biết là có mình tới sao?
Tế Phật: Vì quyết định quá lẹ, do đó Tướng Quân không rõ được.
Tướng Quân: Quả đắc tội cùng hai vị, xin tha thứ cho, Ngục Quan đã dẫn đoàn tuỳ
tùng ra nghinh đón hai vị.
Ngục Quan: Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh tới thăm, chúng tôi quá
thất lễ xin tha thứ cho. Vì hai vị tới thăm bất ngờ, do đó chúng tôi không được
biết trước để chuẩn bị nghinh tiếp. Kính mời vô trong.
Dương Sinh: Xin đa tạ Ngục Quan. Thấy thảm cảnh xe cán nát thây tội hồn trong
ngục.
Ngục quan: bản ngục là Địa Ngục Xe Cán (Xa Băng Địa Ngục), những tội hồn nào mà
từ Đệ Nhất Điện đến Đệ Thất Điện đã xử trị rồi mà chưa hết tội thì bị giao tới
bản ngục để trừng phạt thêm cho đủ số tội.
Dương Sinh: Loại xe này hai bánh khấp khểnh không đều giống như lưỡi dao thép
sắc bén, trước xe có bốn con lừa kéo, tội hồn bị đặt nằm trên đất, khi lừa bị
đnáh, phóng tới trước, tội hồn vừa thét lên được một tiêng' thì thân thể đã bấy
nhầy như tương, hừ hù thật là đau đớn xót xa.
Tế Phật: Con nhìn đám xương thịt kia, chỉ một trận gió ác nghiệt thổi qua liền
hiện trở lại nguyên hình để nhận lãnh hình phạt kế tiếp.
Dương Sinh: Không rõ họ đã phạm tội gì?
Ngục Quan: Những kẻ gian dâm bất hiếu,sát nhân hại mạng sống, sau khi bị trừng
trị ở các điện xong phần lớn bị giải giao qua bản ngục chịu hình phạt xe cán. Vì
kẻ phạm tội gian dâm bất hiếu, giết người hại mạng sống đều là những kẻ mất nhân
cách, chúng đều bị mang tới bản ngục để biến chế làm mới lại, do đó mới đem
nghiền nát chúng thành tương thịt.
Tế Phật: Vì thời giờ đã trễ, lại biết rõ dụng ý của Địa Ngục Xe Cán, người đời
mau sám hối trước Thần Thánh, nếu như phạm phải tội này từ nay mau thay mặt dổi
đầu thành con người mới, hẳn là được miễn hình phạt xe cán nát thây. Dương Sinh
trở lại Thánh Hiền Đường.
Dương Sinh: Xin đa tạ Ngục quan cùng chư vị Tướng Quân đã tận tình hướng dẫn. Vì
thời giờ eo hẹp, xin cáo biệt.
Ngục Quan: Lệnh cho các Tướng Quân hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn...
Dương Sinh: Con đã chuẩn bị xong, kính mời ân sư trở lại Hiền Đường.
Tế Phật: Đã tới Thánh hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI NĂM MƯƠI
DẠO ĐỊA NGUCCHĂT. CHÂN CHẶT TAY
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 6 tháng 3 năm Mậu Ngọ (1978)
Thơ:
Thổ đậu lạc hoa phương đắc nhân
Thần tiên diện mục hiện thiên chân
Vô tình hạ chủng nhân thành quả
Hữu ý tu thân phản bất nhân.
Dịch:
Đậu đất hoa tàn mới kết nhân
Thánh tiên vẻ mặt lộ thiên chân
Vô tình gieo giống nên thành quả
Sửa tánh tu tâm biến đổi thân.
Tế Phật: Nhụy hoa của loài đậu đất nếu không héo tàn rơi rụng ắt không kết trái,
cho nên "đạo trở về nguồn cội" so ra cũng chẳng khác gì việc "rụng hoa kết
trái"; còn nếu như đang sống mà bị chết ắt là cái chết vô phương cứu chữa. Được
thêm một, lập tức mất đi một, đó là lẽ luân hồi giữa một bé trai và một bé gái
tính tình hồn nhiên chơi đùa với nhau thì không động lòng duc. nên không sái
quấy, vì chân tính của trời phú cho còn trong suốt chưa vẫn dục, tính đó cũng là
tính của các vị Tiên Phật. Nhưng nếu hiện là người trần tình cam> tràn trề, trai
gái kết giao qua lại hẳn là tính dục khó bề ngăn giữ, sẽ chẳng khác nào hoa rụng
kết trái, trái có hột mọc thành cây rồi lại nở hoa, mãi mãi sinh sinh tử tử,
chìm đắm hoài trong cõi luân hồi. Do đó kẻ sĩ tu luyện "chân tính" phải lo giữ
gìn "nguyên chân khí" để bảo vệ "thiên chân tính" của Trời phú cho, hầu tránh vì
tình mà gieo giống để liễu mọc xum xuê mang nghiệp nợ mãi tình đời, trải không
biết tới bao giờ mới hết. Nhưng chịu bỏ vốn ắt có lời, nếu biết chăm tu thì tới
già cũng giảm được đôi phần, mong người đời hiểu rõ lẽ này. Bữa nay chuẫn bị dạo
âm ti, Dương Sinh lên đài sen.
Dương Sinh: Tiết trời oi bức, mồ hôi chảy ướt đẫm cả đầu.
Tế Phật: Mồ hôi từ nước mà ra, không đổ mồ hôi đạo chẳng thông.
Dương Sinh: bạch ân sư, tại sao ân sư lại nói vậy?
Tế Phật: Không có miệng không phải nói năng lại còn lần lần lãnh hội được ý
nghĩa ẩn sau lời nói. Thôi chúng ta dạo thăm âm phủ...
Dương Sinh: Vâng lệnh.
Tế Phật: Đã tới, mau xuóng đài sen.
Dương Sinh: Âm phủ rất lạnh lẽo, thật quá khác biệt với dương gian.
Tế Phật: Đương nhiên, dương gian thuộc dương, âm phủ thuộc âm, đó là lẽ cố định
như vậy rồi.
Dương Sinh: Bữa nay tới đây thấy âm binh áp giải tội hồn đi đông nghẹt, đám
người ngựa phía trước hình như là đang tiến tới nghênh đón chúng ta.
Tế Phật: Đúng, bữa nay chúng ta dạo "Đoạn Chi Tiểu Địa Ngục" (Tiểu Địa Ngục Chặt
Chân Tay). Dám đông người phía trước đều là Ngục Quan cùng Tướng Quân coi ngục,
con mau tới trước làm lễ ra mắt.
Dương Sinh: Xin ra mắt Ngục Quan, tôi là Dương Sinh môn đệ của Thánh Đế thuộc
Thánh Hiền Đường ở Đài Trung, bữa nay theo chân Tế Phật tới quí ngục tham quan,
xin chỉ giáo nhiều cho.
Ngục Quan: Miễn lễ, hoan nghênh Phật Sống Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh tới hăm.
Quí Hiền Đường phụng chỉ viết sách, công đức lớn lao, sách Địa Ngục Du Ký viết
xong sẽ đem in tặng để khuyên răn người đời quả là một kỳ công, vượt cả Huyền
Tổ, thế gian không những sẽ tiêu tan tội lỗi mà còn được ban phát phước lành.
toàn bộ cơ mật ở âm phủ tiết lộ hết trong sách, đây thực là một công trình biên
chép có một không hai của muôn đời, mà đạt được cũng chẳng dễ dàng. Mời hai vị
theo tôi đi thăm Địa Ngục Chặt Chân Tay.
Dương Sinh: Đa tạ Ngục Quan, tiéng khóc than của tội phạm bị hành hình từ trong
ngục vọng ra. A! Nhà lao này giống như một quảng trường, tội hồn bị bắt quỳ
xuống đất, binh lính quỉ địa ngục cầm dao sắc chặt đứt lìa vai trái, tội hồn
khóc thét lên một tiếng nghe thật não nùng, lại chém thêm vai phải, tội hồn đã
ngã lăn ra đất còn bị chặt đứt đôi chân, máu đổ ra lênh láng, thảm không dám
ngó. Xin hỏi Ngục Quan tội hồn phạm tội gì mà quí ngục phải dùng tới hình phạt
này?
Ngục Quan: hình phạt chặt chân tay thảm thiết đau đớn vô cùng. Người đời không
thiếu kẻ sinh ra đủ tay chân đẹp đẽ nhưng không hề làm việc thiện, lại chuyên
môn dùng vào việc giết người hại người. Cho nên khi chết xuống âm phủ sau khi
chết bị các ngục khác sửa trị xong, tội hồn còn phải giao tới bản ngục để xử tội
lần chót. Phàm những kẻ lúc sống bất trung, bất hiếu, cướp sông cướp biển dùng
tay giết người, dùng dao dùng bút hại người, dùng chân đạp đá người, đi vào
đường tội lỗi, không chịu ăn năn hối cải, sau khi chết bị các ngục xử phạt xong
rồi, cuối cùng còn bị giao qua bản ngục để sửa trị tiếp.
Tế Phật: Hiện giờ trên thế gian trộm cướp sang đoạt quá nhiều, đoạt danh đoạt
lợi, đoạt hàng, đoạt vật, đoạt sắc, đoạt mạng, ngày nào cũng xẩy ra như cơm bữa.
Những kẻ coi thường công lý đang tâm lường gạt, nỡ tay cướp trộm thì sau khi
chết ắt bị quỉ binh âm phủ đoạt đôi tay của chúng. Bọn vượt qui luật, vượt lễ
giáo, vượt giới hạn, không tuân theo khuôn khổ trật tự, bọn đầu cơ trục lợi,
tham chút tiện nghi, thích đi đường ngang ngõ tắt, gian manh sang đoạt, sau khi
chết cũng bị âm binh chặt cụt hai cẳng đen đi. Vì thời giờ đã trễ, thăm Tiểu Địa
Ngục Chặt Chân Tay tới đây kể như đã đủ.
Ngục Quan: Người đời nhiều kẻ không tin là có địa ngục tại sao không tới nhà
ngục ở dương gian để thấy tận mắt bọn gian manh lường gạt cướp trộm tiền của,
chân chúng thích đi đường ngang ngõ tắt thay vì phải đi ba bước chỉ bước có một
bước, hỏi tại sao mà không vấp không té, có một cái miệng mà nuốt hai trái quít
một lượt hẳn là phải nghẹt thở, kể cũng chẳng lạ lùng chi. Hai vị viết sách thật
là khổ cực, lần sau nếu hai vị lại tới thăm, chúng tôi sẽ rất hoan nghênh.
Dương Sinh Sinh: Vì ân sư tế Phật bắt phải về, chỉ còn biết cáo từ đa tạ Ngục
Quan cùng chư vị Tướng Quân.
Ngục Quan: Đã phải trở lại dương gian thì chẳng thể lưu giữ. Lệnh cho các Tướng
Quân hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Dương Sinh: Con đã lên đài sen, kính mời ân sư trở lại Hiền Đường.
Tế Phật: Đã tới Thánh hiền Đường, Dương Sinh xuóng dài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI NĂM MƯƠI MỐT
DẠO ĐỆ CỬU ĐIỆN GẶP GỠ ĐÔ THỊ VƯƠNG
Phật Sống Tế Phật
Giáng ngày 29 tháng 3 năm Mậu Ngọ (1978)
Thơ:
Nhân sinh nan thoát quỉ môn quan
Kỷ lũ u hồn khứ phục hoàn
Phú quí vinh hoa như nhất mộng
Kiệm cần tự đắc lạc thanh nhàn
Dịch:
Cửa quỉ người đời tránh được sao
U hồn lũ lượt kéo nhau vào
Vinh hoa phú quí tuồng hư ảo
Vui sống cảnh nghèo chẳng ước ao.
Tế Phật: Đệ Bát Điện và Cửu Trùng Quan đã dạo qua, bữa nay phải tới Cửu Điện
thăm dò Âm Quan, Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen.
Dương Sinh: Bữa nay phải dạo thăm Cửu Điện để sách Địa Ngục Du Ký sớm được hoàn
tất, lòng con tràn trề hứng khởi, nói chẳng nên lời.
Tế Phật: Việc vượt cửa ải Cửu Trùng hết sức quan trọng, con chớ vội khinh thường
và sớm lạc quan, nhận trọng trách vượt biển băng ngàn việc làm phải hết sức cẩn
thận. Sách Địa Ngục Du Ký nếu như ban bố ra được để khuyên đời thì con có công
rất lớn, mong con có gắng hoàn thành nhiệm vụ. Mau lên đài sen.
Dương Sinh: Xin tuận lệnh, con đã sửa soạn xong, mời ân sư lên đường...
Tế Phật: Đã tới nơi, mau xuóng đài sen.
Dương Sinh: Con xuống rồi, phía trước người ta tụ tập đông đảo, hình như họ tổ
chức đón tiếp mình trọng thể lắm.
Tế Phật: Đô Thị Vương ở Cửu Điện sớm được tin bữa nay chúng ta tới thăm, cho nên
đã tổ chức lễ nghinh tiếp thật là đặc biệt, chúng ta phải phủi sạch bụi bặm. Con
hãy nhìn phía trước, tiéng thanh la, tiếng trống rình tai, đủ loại nhạc khí đang
hoà tấu khúc nhạc chào mừng.
Dương Sinh: Bản nhạc này nghe giống như bản dân nhạc cổ điển Nam Bắc Quản Điều.
Tế Phật: Đúng đấy.
Dương Sinh: Nhạc tiên có khác, nghe xong cảm giác lâng lâng, hồn nhẹ nhàng bay
bổng như đang sống tại cõi tiên, cảnh này có thật được sao?
Tế Phật: Có thật chứ, người đời bất cứ ai công quả tu đạo tròn đầy, lúc thư son
tới mời gọi về cõi Tiên bên tai họ hẳn là được nghe tiên nhạc . Còn kẻ không có
công đức lớn không được hưởng thú vinh hoa đặc biệt này của cõi trời. Trần gian
vào những dịp lễ ban thưởng cũng có hoà tấu âm nhạc, cho nên cõi phàm có nhạc
trần, cõi Trời có nhạc tiên, quả không phải là hư truyền. Nếu như lúc sống tội
ác nào cũng phạm thì hẳn là sau khi chết tai sẽ phải nghe tiếng quỉ khóc, tiếng
gương đao xiềng xích, gặp cảnh này đường về cõi âm khó mà kham nỗi, chắc chắn
dọc đường sẽ bỏ chạy để rồi lại bị âm binh tróc nã trói đem về âm phủ. Chúng ta
mau nhắm phía trước đi tới, quan viên Cửu Điện hàng ngũ chỉnh tề đàng chờ đợi.
Dương Sinh: Lạy chào ra mắt Đô Thị Vương cùng chư vị Tiên Quan, kẻ hậu sinh này
là môn đệ của Thánh Đế thuộc Thánh Hiền Đường ở Đài Trung cùng ân sư Tế Phật
phụng chỉ dạo âm ti viết sách, bữa nay tới đây trước xin đa tạ sự tiếp đón nồng
hậu, sau kính mong giúp đỡ chúng tôi phương tiện dồi dào.
Minh Vương: Miễn lễ, Dương Sinh mau đứng lên, bữa nay bản vương đặc biệt thiết
tiệc khoản đãi hai vị, mau theo tôi vào khách sảnh trong điện nghỉ ngơi.
Dương Sinh: Xin đa tạ Minh Vương quá hậu đãi.
Tế Phật: Chúng ta hãy theo Minh Vương vào trong điện nghỉ ngơi.
Minh Vương: Mời hai vị ngồi, xin chớ làm khách, dạo thăm âm phủ để viết sách,
suốt từ Đệ Nhất Điện tới bản điện có thể có thể nói là công lao khổ cực muôn
phần, bữa nay bản vương đặc biệt thiết tiệc để hai vị tẩy trần.
Tế Phật: Đa tạ sự chiếu cố của Đô Thị Vương, thầy trò chúng tôi rất hân hạnh
được dự tiệc tẩy trần, vì cưỡi đài sen suốt năm qua bị nhiễm nhiều bụi bặm!
Minh Vương: Đâu có, đâu có. Lão sư phụ tâm vốn thanh tịnh chỉ có bụi bám đầy
mình mà thôi, như hoa sen mọc từ bùn chẳng thấy hôi tanh mùi bùn, bản tính trái
lại vô cùng thanh cao, tinh khiết, chỉ tiếc đôi chân phàm lặn lội khắp nơi nên
cần phải rửa sạch thôi. Trái cây tiên trên mâm mời hai vị dùng tự nhiên, chớ
khách sáo.
Tế Phật: Trò cưng cứ tự nhiên, khó có cơ hội này, ăn đi.
Dương Sinh: Cảm ơn, cảm ơn. Loại trái cây này giống hệt trái bồ đào ở dương
gian, màu đỏ ửng tím, hương vị ngọt ngào thơm mát, ăn rất ngon miệng.
Minh Vương: Đúng, đây là loại bồ đào sắc huyền, mọc tự nhiên ở Côn Lôn, vì hấp
thụ được linh khí của trời đất mà kết trái cho nên vỏ màu đen huyền, ruột kết
tinh hương vị quí giá, ăn nhiều đi.
Tế Phật:Mình vừa ăn vừa bàn chuyện, Dương Sinh có thắc mắc điều chi không? Nếu
có con hãy xin Minh Vương chỉ giáo.
Dương Sinh: Thưa vâng. Xin Minh Vương cho biết cảm tưởng về tình hình sinh hoạt
tại quí ngục ra sao?
Minh Vương: Ha ha, tự biết trách nhiệm của bản ngục quá nặng nề trọng đại. Mắt
nhìn hết đám tội hồn nọ tới đám tội hồn kia, bị hành xử những hình phạt quá đau
đớn lòng thực quả không nở, sông ở đây buộc phải phán quyết thực công bình,
không thể để tình riêng chi phối. Ước mong chúng sinh sớm quay đầu hướng thiện,
trách nhiệm của chúng tôi mới mong hoàn thành. Các cơ quan ở âm phủ đều sinh
hoạt một sách hết sức trang trọng nghiêm minh thư thái nhẹ nhàng, giống như các
pháp quan ở dương gian luôn luôn chủ trương "Minh kính cao huyền" "Chính tâm hoá
nhân" (Gương sáng treo cao) (Lòng ngay dạy người).
Dương Sinh: À thì ra là thế. Xin Minh Vương cho biết quí điện cai quản ngục nào?
Minh Vương: Bản điện quản lý đại địa ngục A Tỳ lại còn thiết lập thêm 16 tiểu
địa ngục để trừng phạt tội hồn.
Dương Sinh: Có người hỏi là sau khi chết phải qua 18 cửa địa ngục thì làm sao
giảng?
Minh Vương: Người đời thường nói giỡn rằng: "Ái cha cha! Sau khi chết phải qua
18 lần địa ngục" nói như vậy tức là chỉ mới đề cập tới địa ngục A Tỳ mà thôi,
bởi vì địa ngục A Tỳ có tới 18 tầng thấu tới tận tâm của đất, nơi đó âm khí dày
đặc tối tăm, bàn tày dơ lên không nhìn thấy ngón, ngập đầy nước đen sì như cà
phê, tội hồn đó được uống cà phê tối ngày sáng đêm, Dương Snh có muốn nếm một ly
không?
Dương Sinh: Không dám, không dám, tôi nghĩ uóng nước trà tốt hơn, chẳng thích
thứ cà phê đó vì uống vào nó không tiêu.
Minh Vương: Dương Sinh còn câu thúc cẩn trọng, mời dùng trái cây tiên.
Dương Sinh: Loại trái cây này trong giống như hình tháp 9 tầng ở dương gian, ăn
vào hương vị thơm tho ngọt mát, hơn hẳn những loại trái cây trồng ở dương gian.
Không rõ tên của loại trái cây này là gì?
Minh Vương: Đúng, tên nó là tháp chín tầng, đặc biệt chỉ có Cửu Điện mới trồng
được thôi, ăn nó xương cốt cứng mạnh, đại bổ thận tính nguyên căn. Chín tầng là
dương cực cho nên trái "tháp chín tầng" rất bổ dương khí, Dương Sinh ăn nó rất
tốt.
Tế Phật: ha ha, phần lớn ham lên tháp chín tầng ít thích xuống 18 ngục A Tỳ, kễ
cũng hay!
Minh Vương: Hai vị chớ chê tiệc nhỏ của tôi, hãy ăn cho no bụng. Tro bụi còn bám
đầy người, bây giơ tôi đưa Dương Thiện Sinh ra Thác Cửu Tuyền tắm giặct được
không?
Dương Sinh: Thưa ân sư, đi một mình con hơi ngại, mời ân sư cùng đi với con?
Tế Phật: Được.
Minh Vương: Mời hai vị theo tôi.
Dương Sinh: Đa tạ Minh Vương cùng chư vị Tiên Quan đã đích thân hướng dẫn chúng
tôi đi. Đường sá thật là mới mẻ trong lành, địa ngục ít thấy những con đường
sạch sẽ bằng phẳng như thế này.
Tế Phật: Đường này chỉ dành riêng cho những vị đạo sì có tu luyện qua lại, phàm
muốn lên dương gian đón rước thần vị của thần linh đ6ù phải tới đây tẩy trần,
sau mới có thể lên dương gian tiếp nhận hương hảo? Bữa nay con quả là mày mắn
mới được thấy chốn này, hãy thưởng thức cái phong vị tươi mát của Thác Cửu
Tuyền. Con có thấy ba vị thần từ phía trước đi tới không, các vị đó sau khi tẩy
trần sẽ nhận lãnh sắc chỉ lên dương gian đảm nhiệm chức vụ.
Dương Sinh: Nhìn các vị thần đó thấy khí sắc vui tươi tràn trề vể rực rỡ hào
quang.
Minh Vương: Núi phía trước cao quá, cây cối trên đó lại vô cùng xanh tốt thắc
nước từ vách đá đổ xuống trông giống như những tấm lụa, tiết trời nóng bức như
vậy mà nước mát cứ tuôn ào ào, hẳn là lòng mát dạ đất mở.
Minh Vương: Đã tới Thác Cửu Tiền.
Dương Sinh: Quả không sai, trên, vách núi có đề hàng chữ lớn sắc vàng óng ánh
"Cửu Tuyền Bộc Bố" (Thác Cửu Tuyện Chín ngọn thác từ trên cao ào ào đổ xuống
trong giống như những tấm lựa trải dài.
Minh Vương: Dương Thiện Sinh sắp sửa tẩy trần. Lệnh cho các tương hộ giá lui
bước.
Tướng Quân: Xin tuân lệnh.
Minh Vương: Dương Thiện Sinh, hãy đi một mình tới dưới chân thác.
Dương Sinh: Sức nước quá mạnh, con không dám đi một mình, kính mời ân sư đi cùng
con.
Tế Phật: Được. Thân Phật của ta đã ba năm không tắm rửa, cũng nênlợi dụng cơ hội
này thanh tẩy một phen. Chúng ta đi...
Dương Sinh: Mát quá! A! Mắt con không mở nổi.
Tế Phật: Cố mở ra mới có thể rửa sạch được mắt trần của con.
Dương Sinh: Sướng quá, mát mẻ vô cùng nhưng toàn thần ướt sũng, biết tính sao
đây?
Tế Phật: Chớ lo, đợi lát nữa ta dùng quạt bồ quạt một quạt như máy vắc nước quay
tít khô liền, mau rửa sạch bàn chân, chỗ đó nước xối không tới còn dơ hày.
Dương Sinh: Xin ân sư đừng mỉa mai con.
Tế Phật: Những chỗ không nhìn thấy thường rất dơ dáy như gan bàn chân, gầm
giường, gầm bàn, đó là những căn cứ địa, nếu không đại tảo trừ lỡ nó sinh ra rận
sau này làm sao cưỡi gió dè mây được.
Dương Sinh: Đúng đúng, ân sư nói rất chí lý.
Tế Phật: Quả không sai, Thác Cửu Tuyền giống như chín con rồng phun nước, buịi
trần gặp nó lập tức sạch sẽ chẳng cần xà bông, bột giặt, thuốc tẩy. Người đời
nên giữ gìn thân tâm trong sạch, để sau khi chết bị khám xét hẳn là tránh được
hình phạt. Mau đi lên, đã sạch sẽ rồi.
Dương Sinh: Xin ân sư quạt lẹ cho người con khô đi.
Tế Phật: Con hãy nhìn cái quạt bồ này, còn hơn cả máy vắt nước.
Dương Sinh: Quản nhiên quần áo khô ngay, thân tâm đều sạch sẽ, đa tạ ân sư cùng
Minh Vương.
Minh Vương: Mong Dương Thiện Sinh vì Thánh Hiền Đường gắng chịu đựng gian lao,
thúc ngựa gia roi.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, mong Minh Vương ban cho thật nhiều linh quang.
Minh Vương: Mây tan, mặt trời ló dạng, không rửa cũng sạch, phải hiểu điều đó.
Tế Phật: Vì thời giờ đã trễ, chúng tôi xin cáo biệt tại đây không thể tiễn chân
Minh Vương về điện được.
Minh Vương: Không quan hệ, lệnh cho các quan viên hàng ngũ chỉnh tề dưa tiễn.
Dương Sinh: Nhờ ơn Minh Vương ban tiệc cùng cho tắm nước Thác Cửu Long Tuyền,
tới già không quên, xin cảm tạ chư vị quan viên, mong gặp lại.
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI NĂM MƯƠI HAI
DẠO TIỂU ĐỊA NGỤC DẦU SÔI TƯỚI THÂN MÌNH
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 9 tháng 4 năm Mậu Ngọ (1978)
Thơ:
Vân sơn hữu lộ đạt tiên môn
Tùng hạ thâm tư vong nhật hôn
Ngã ái dương cuồng kỳ tế thế
Lư trung biệt hiện nhất càn khôn.
Dịch:
Mây núi đưa đường tới cửa tiên
Dưới thông quên tối nghĩ triền miên
Cứu đời đang lúc ta mê mải
Lều cỏ càn khôn họp sáng đêm.
Tế Phật: Khí trời bữa nay vô cùng nóng nực, các cửa tiệm, trạm xe đông nghẹt
người thở không nổi; đường địa ngục lầy lội trơn trượt cũng đông đúc náo nhiệt
lạ thường. Nhìn lại chùa miếu, thánh đường thê lương ảm đảm, hoa giả cảnh dối,
mùi rượu thịt, sắc dục, tiền tài đã phủ ngập những nơi đó từ lâu, để rồi dần dần
đắm chìm xuống đấy đầm lầy hố sâu tội ác. Bởi vậy, đường địa ngục giờ đây cũng
đông nghẹt chứa không hết tội hồn. Mong người đời hãy tỉnh thức. Bữa nay chuẩn
bị dạo âm ti, Dương Sinh lên đài sen.
Dương Sinh: Xin vâng lệnh, con đã sửa soạn xong, mời ân sư lên đường...
Tế Phật: Đã tới nơi, Dương Sinh mau xuống đài sen.
Dương Sinh: Thưa ân sư, những người từ phía trước đang đi tới là những thần
thánh từ phương nào tới vậy?
Tế Phật: Họ là Ngục Quan cùng Tướng Quân của tiểu địa ngục Dầu Sôi Tưới Thân
Mình đến nghênh đón chúng ta.
Dương Sinh: À, thì ra là vậy. Lạy chào ra mắt Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân.
Ngục Quan: Miễn lễ, hoan nghênh hai vị đã phụng chỉ tới tham quan.
Dương Sinh: Đa tạ. Nơi cửa các công ty, công xưởng trên dương gian đều thấy treo
tấm bảng đề "xin miễn tham quan" tại sao ở đây quí vị lại hoan nghênh tham quan.
Tế Phật: Hừ hừ, công xu6ởng là chỗ quan trọng, kẻ nhàn rỗi không đước tới đấy.
Địa ngục không có cửa, không đón mừng người tới, nhưng người đời không chịu nhìn
bảng cảnh cáo viết, lại ngang nhiên lao đầu vào, cho nên không lấy làm lạ khi họ
bị bể sọ máu tuôn xối xả, đau đớn kêu la không ngớt.
Ngục Quan: Tế Phật nói rất chí lý, những nơi không nghênh đón ngài ít lui tới là
hơn, kẻo không sẽ bị rớt xuống giếng sâu hối không kịp; cũng xin chớ lưu tâm về
việc bữa nay chúng tôi nghinh tiếp quí vị. Bản ngục là ngục Dầu Sôi Tưới Thân
Mình trực thuộc quyền cai quản của Đệ Cửu Điện, mời hai vị theo chúng tôi đi xem
xét tình hình.
Dương Sinh: Đa tạ những điều Ngục Quan vừa chỉ dạy. Tiếng kêu từ tong ngục vọng
ra, các chảo dầu đang đun lửa bày la liệt trên đất, đã sôi sùng sục muốn bắn
tung lên, quỉ binh còn hăng say châm thêm dầu, mồi thêm lửa. Tội hồn bị lột sạch
quần áo, trói vào cây cột, chảo dầu sôi đặt sát bên, giữa lúc dầu cuồn cuộn réo
sôi sùng sục thì quỉ binh đổ ấp nước lạnh vào, thế là dầu sôi và lửa cháy văng
khắp mình tội hồn, toàn thân chín đỏ, da thịt bỗng căng phồng, kẻ nào kẻ nấy kêu
la thảm không rõ lúc sống họ đã phạm phải tội lỗi gì.
Ngục Quan: Để Tôi sai đem ột vài tội hồn tới cung khai, hầu khuyên răn người
đời.
Dương Sinh: Hay lắm.
Ngục Quan: Đã giải tới. Tội hồn lắng nghe ta bảo: hai vị này là Phật Sống Tế
Công cùng Dương Sinh thuộc Thánh Hiền Đường ở Đài Trung trên dương gian phụng
mệnh xuống âm phủ thâu thập án chứng, hãy mau khai thực những hành vi phạm lỗi
lầm lúc còn tại thế.
Tội Hồn: Nói ra thực là xấu hổ, tôi lúc sống buôn bán văn bán chữ để sinh nhai,
nghĩ rằng viết sách đứng đắn, mãi lực sẽ rất giới hạn, sao bằng viết tiểu thuyết
dâm ô rồi đem xuất bản có lợi hơn nhiều. Từ đó tôi bèn âm thầm viết, in và bán,
kiếm được rất nhiều lời. Su đó vợ chồng tôi bất hoà đem nhau ra oà ly dị, cuối
đời tôi mắc bệnh bán thân bất toại, bèn cho là ác nghiệp quả báo. Sau khi chết
âm binh áp giải tôi xuống địa ngục, lúc đứng trước đài gương soi ác nghiệp tất
cả các tội mà tôi đã phạm đều hiện rõ. Nên tôi đã phải trải qua các điện, chịu
đủ mọi hình phạt nào như cắt tim, chặt tay v.v... còn bị giao tới Đệ Cửu Điện để
lãnh hình phạt tưới dầu sôi, hàng ngày chịu thống khổ, cầu xin trời đất xá tội
nhưng chẳng được chiếu cố. Nhắn với thế nhân, chớ có viết chuyện dâm ô hại
người, để tránh khỏi phải chịu hình phạt khắc nghiệt như tôi hiện nay tối tăm
không thấy bóng mặt trời.
Ngục Quan: Sách dâm ô hại người không ít, trên đời thanh thiếu niên xem sách dâm
ô nhiễm thói quen thủ dâm độc ác, xấu xa hoặc tìm tới các ổ mải dâm nơi hang
cùng ngõ hẻm, thạm chí còn hiếp dâm giết người, sự taihại còn truyền mãi ngàn
sau. Kẻ viết sách dâm ô, ngoài việc chịu hình phạt nghiêm khắc ở các ngục ra,
cuối cùng còn bị đầy xuống ngục A Tỳ, đợi tới bao giờ sách dâm tuyệt tích mới có
thể thoát khổ, trở lại kiếp luân hồi, tiếp nhận nghiệp báo. Tội hồn thứ hai mau
khai rõ lúc sống người đã phạm tội gì?
Tội Hồn: Tôi lúc sống mở tiệm chụp hình, kỹ thuật không đến nỗi kém cỏi mà vẫn
không đông khách, sau nghe lời dụ dỗ của bạn bè, lén lút quay phim con heo dâm ô
tục thỉu đem bán, kiếm được rất nhiều lời, về sau việc làm ăn bại lộ, bị cảnh
sát bắt, bị ra toà án xử phạt. Suốt đời tôi chỉ có phạm mỗi một tội này. Tới khi
chết bị đày ải đau đớn khắp các ngục, cuối cùng còn bị giải giao tới ngục này
lãnh thêm hình phạt, thống khổ cùng cực không cách chi chịu nổi.
Ngục Quan: Phàm nhừng kẻ viết sách dâm ô quay phim dâm dục, truyền bá hình ảnh
khoả thân, chế tạo thuốc kích thích tình dục, ấn loát phát hành truyện tục,
chúng đều phạm vào nghiệp ác, âm phủ sẽ gia hình tối trọng. Dâm là đầu mối của
muôn ngàn tội ác, bọn này dùng tài giỏi văn hay quét đất, sử dụng tình giả trí
giả, không bệnh tật cũng than đau đớn làm vẫn **c tâm hồn người đời, tội ác quá
lớn. Thế nhân không nên xem những thứ tranh ảnh không sách báo dâm ô bẩn thỉu
này, để tránh cho tính tình khỏi bị uế trược. Nếu sai trái tạo ác nghiệp sẽ
khiến thần linh cai quản ba cõi trời đất và người nổi cơn thịnh nộ.
Tế Phật: Bữa nay thời giờ đã trễ, chúng ta chuẩn bị trở lại Thánh Hiền Đường, đa
tạ Ngục Quan đã cực nhọc chỉ giáo.
Dương Sinh: Bái từ Ngục Quan cùng Tướng Quân đa tạ đã ban phát cho chúng tôi
nhiều phương tiện.
Ngục Quan: Chớ khách sáo, lệnh cho cá Tướng Quân cùng binh lính hàng ngũ chỉnh
tề đưa tiễn...
Tế Phật: Đã tới Thánh hiền Đường, Dương Sinh xuống dài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI NĂM MƯƠI BA
DẠO ĐỊA NGỤC RẮN ĐỘC ĐỎ TÍA CẮN NHOI
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 19 tháng 4 năm Mậu Ngọ (1978)
Thơ:
Sám hối năng tiêu tội nghiệp nhân
Trần ai tẩy tận động nguyên thần
Thiên đường chỉ nạp tu chân khách
Địa ngục nhuyên nghinh tác ác nhân.
Dịch:
Sám hối mới mong giải nghiệp thân
Động tâm bụi phủi sạch tinh thần
Thiên đường chỉ đón người tu đạo
Địa ngục chuyên mời lũ ác nhân.
Tế Phật: Thiên đường chỉ dung nạp người học đạo, tu nhân tích đức, hiền lành
chân thật. Địa ngục trái lại chuyên nghinh tiếp kẻ bất nhân ác đức, gian trá lưu
manh. Vì hoi nơi không giống nhau nên đối tượng tiếp đón cũng khác nhau. Như nơi
sòng bạc mở rộng cửa để nghinh đón những đồng đạo cùng chung chí hướng, đối với
việc đánh bài nếu như con không cảm thấy hứng thú, tướng quân cửa sẽ ngăn cấm
không cho con vượt qua ao Sấm sét (Lôi Trì) một bước. Điều này đủ chứng tỏ nếu
như lúc sống con không ham thích đánh bạc, ắt hẳn con sẽ không đi theo ngã đường
đám con bạc ham lao đầu tới. Bữa nay chuẩn bị dạo âm ti, Dương Sinh mau lên đài
sen.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Con đã sẵn sàng, mời ân sư khởi hành...
Tế Phật: Đã tới. Dương Sinh mau xuống đài sen.
Dương Sinh: Bữa nay mình tới chốn nào đây?
Tế Phật: Con thấy phía trước Ngục Quan đang lo sắp xếp các thuộc hạ để nghinh
đón chúng ta, họ là những quan viên của địa ngục Rắn Độc Đỏ Tía Cắn Nhoi. Mau
tới trước làm lễ ra mắt.
Dương Sinh: Vái chào ra mắt Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân.
Ngục Quan: Miễn lễ. Bữa nay phụng mệnh nghinh tiếp nhị vị đạo trưởng tới thăm,
kính mời hai vị vào trong ngục tham quan.
Dương Sinh: Cảm tạ hậu ý tiếp đãi của Ngục Quan... Ôi chao! Rắn lớn bò kín sàn
ngục khiến người ta ai nhìn thấy cũng sợ hãi kinh hoàng. Bầy rắn đỏ tía trườn
mình bò lúc nha lúc nhúc, con nào con nấy to quá chừng. Đàn rắn nhắm miệng tội
hồn nhoi vào rồi chui ra đằng rún, có nhiều tội hồn thân thể tứ phía bị rắn **c
lỗ, máu tươi xối xả tuôn ra, mặt tội hồn không còn chút khí sắc, mê man té lăn
ra đất. Tiếng rên la nghe điếc cả tai, chứng kiến cảnh này lục phủ ngũ tạng tê
buốt, tay chân bủn rủn. Xin hỏi Ngục Quan những người này đã phạm phải các tội
gì?
Ngục Quan: Bnả ngục là ngục Rắn Độc Đỏ Tía Cắn Nhoi, trong ngục toàn rắn độc màu
đỏ tía, chúng không nhoi đất mà nhắm tội hồn nhoi miệng, nhoi rốn như vậy là
cũng có lý do. Phàm những kẽ tại thế không lo chính đoạ chuyên môn, tham nhũng
hối lộ, tham lam của công, tham của hại người, tâm địa ác độc như rắn rết,
chuyên môn gây đau đớn cho người khác, hành động gian manh, gây chia rẽ giữa
người này kẻ nọ, khiến họ âu đả thanh toán nhau, bọn nhắm mắt giết người giấu
dao, giấu dùi thừa cơ đâm chém. Hiện nay trần gian ngành kiến trúc đại phát đạt
nhiều nhà thầu lãnh xây cất công thự, tư thất v.v... đều bớt công, giảm vật liệu
khiến di hai về sau, hành động này như rắn đào hang vô cùng bất chính. Sau khi
chết không những phải chịu hình phạt ở các ngục khác, mà cuối cùng còn bị giải
giao tới bản ngục lãnh hình phạt tối hậu.
Dương Sinh: Rắn cắn nhoi thân ngườ, kinh hãi muôn phần, không rõ còn có những
tội nào khác phải tới đây chịu hình phạt nữa không?
Ngục Quan: Tôi chỉ kể đại khái, tội trạng còn nhiều, tuỳ theo trường hợp mà phân
xử.
Tế Phật: Kể thích âm mưu dùng sừng trâu nhọn dần dần vì cái nhỏ mất cái lớn, một
đời dùng sừng đào khoét liệu rộng được bao nhiêu? Kiếp người lại quá ngăn ngủi,
tại sao không sống cho có lương tâm, mà lại đi ỷ tài vơ vét lợi lộc. Nhìn đám
tối hồn bị đưa ra pháp trường kia, xiêu xiêu vẹo vẹo, đau đớn ngập tràn chịu
đựng cách nào cho thấu. Trông mong người đời xem xong sách Địa Ngục Du Ký chớ
nên dùng sừng trâu nhọn nữa, nếu không sẽ giống kẻ thọc tay vào lỗ bắt trạch,
bắt lươn, sẽ có lúc trong lỗ không có trạch có lươn mà có rắn độc. Đó chẳng là
tự tìm cái chết hay sao? Bữa nay dạo âm ti tới đây thời giờ đã trễ, Dương Sinh
mau chuẩn bị trở lại Hiền Đường.
Dương Sinh: Đa tạ những điều Ngục Quan vừa giảng giải. Thầy trò chúng tôi xin
cáo từ.
Ngục Quan: Lệnh cho các Tướng Quân hàng ngũ chỉnh tề đừa tiễn...
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI NĂM MƯƠI BỐn
DẠO ĐỊA NGỤC A TỲ
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 26 tháng 4 năm Mậu Ngọ (1978)
Thơ:
Loan môn vãn khoá hưởng kinh thanh
Hoán tỉnh thương sinh khí thị danh
Đại hạ cao lâu tần kiến lập
Bạch niên khứ xứ tại thổ thành.
Dịch:
Chiều xuống cửa thiền vẳng tiếng kinh
Trần gian thức tỉnh bỏ công danh
Lầu cao nhà lớn xây cho lắm
Già thác cũng về ở mã xanh.
Tế Phật: Phía trước Thánh Hiền Đường mới xây cất một toà lầu lớn, người thời nay
có diễm phúc nên đều được ở trên không trung, nhưng "tâm an" bao giờ cũng hơn
"cư an", tâm nếu như không an định mà ở lầu cao cũng chưa kể là được hưởng phúc
lộc. Đời quí nhứt là tâm an, bởi le tâm không an thì dù có ở nơi cung vàng điện
ngọc cũng vẫn cảm thấy bất an căng có chi là sung sướng cả.
Dương Sinh: Ân sư nói rất chí lý.
Tế Phật: Mau lên đài sen, chuẩn bị dạo âm ti.
Dương Sinh: Con đã sửa soạn xong, mời ân sư lên đường...
Tế Phật: Đã tới, Dương Sinh xuống đài sen.
Dương Sinh: Con xuống rồi, bữa nay mình tới chốn nào đây?
Tế Phật: Bữa nay mình dạo Đại Địa Ngục A Tỳ.
Dương Sinh: Người đời nay rất sơ Ngục A Tỳ, xin thầy dẫn con đi thăm ngục khác.
Tế Phật: Con đừng hãi, đã có ta bên cạnh một chút cũng đừng lo. Nếu như tâm con
kinh hoàng, ta ban cho con một viên thuốc "định thần" này, uống mau di rồi theo
ta.
Dương Sinh: Đa tạ ân sư đã ban cho con thuốc tiên, uống xong tâm trí cảm thấy
yên định lạ thường. Phía trước Ngục Quan đã tới nghinh tiếp chúng ta.
Ngục Quan: hoan nghênh Phật Sống Tế Công cùng Dương Thiện Sinh đã thân hành tới
chỉ dạy. Bản ngục là Địa Ngục A Ty thuộc quyền cai quản của Đệ Cửu Điện, hoan
nghênh nhị vị tới tham quan.
Dương Sinh: Cảm tạ sự thành tâm thiện chí của Ngục Quan. Thưa tại sao khuôn viên
của Địa Ngục A Tỳ rộng lớn quá thế này?
Ngục Quan: Địa Ngục A Tỳ giống như cái mũi của người ta lớn mà không lớn nhưng
lại có thể xuyên qua khắp thân mình, vì là đường dẫn khí hô hấp cho nên kẻ bị
giam tại Địa Ngục A Tỳ đều là thứ quỉ tội ác ngập trời.
Dương Sinh: Con không dám thăm cái động lớn phía trước, bên trong tối om, đen
nghịt, chỉ nghe tiếng kêu la rùng rợn cùng tiếng nước nóng sôi sục, hẳn là tội
hồn đang bị nhận chìm trong đó?
Ngục Quan: Những kẻ ở trong động toàn là tội hồn, ngục này có cả thảy 18 tầng,
trong ngục cắm đầy chông sắt nhọn hoắt cùng ngập đầy nước sôi. Tội hồn bị Tướng
Quân lấy đinh ba đẩy vào cùng bị lòng đất hút mạnh nên chỉ còn kịp nghe tiếng
kêu thảm thiết, ngưng một lát, kế đó gào thét không nguôi. Trong ngục bàn tay
giơ lên không nhìn thấy năm ngón, kẻ bị hành hình ở bên trong vô cùng thống khổ,
có thể nói hình phạt này là hình phạt vô cùng đau đớn.
Dương Sinh: Thường nghe nói người đời rất sợ Ngục A Tỳ là bởi lý do nào?
Ngục Quan: Kẻ bị đày xuống Ngục A Tỳ, phần lớn đều không được siêu sinh, giống
như bị toà án ở dương gian kết án chung thân khổ sai vậy.
Dương Sinh: Ngục Quan có thể dẫn vài tội hồn ra đây để thẩm vấn lấy cung không?
Ngục Quan: Vì quí Đường phụng chỉ viết sách Địa Ngục Du Ký, nên Minh Vương đã ra
lệnh cho chúng tôi được phép đem vài tội hồn ra để làm bằng chứng thôi, còn bình
thường những kẻ đã bị đày tại Địa Ngục A Tỳ không bao giờ được thả ra. Dương
Sinh hãy nhìn tôi dùng phép lạ... phóng luồng ánh sáng cực lớn vào trong ngục
tức thì toàn bộ khí giới hành hình tội nhân ngưng hoạt động. Tướng Quân mau kéo
cổ vài tội hồn ra.
Tướng Quân: Xin tuân lệnh... đã kéo được tội hồn ra.
Dương Sinh: Thân thể tội hồn bị hành hạ bầy nhầy, nát như tương, máu me đầm đìa,
hai tròng mắt lòi ra, không còn nhận ra hình dáng con người, thật là đáng
thương.
Tế Phật: Để ta tạm thi thố pháp lực cho thần trí bọn họ tỉnh lại, giảm bớt sự
đau đớn của xác thân để họ dễ bề thuật lại những hành vi phạm tội.
Dương Sinh: Diệu pháp của ân sư thật quả vô biên, thân thể tội hồn mười phần nát
báy đã hàn gắn lại được hình người tới bảy phần, chỉ còn ba phần là giống quỉ,
không hiểu tại sao?
Ngục Quan: Đây là hai vị đại sư, bọn mi mau thuật lại những hành vi ác độc lúc
còn tại thế để khuyên răn người đời.
Tội Hồn: Tôi lúc sống phạm vào tội bất hiếu, bình thường chỉ ham chơi bời không
chịu làm việc, những khi ngửa tay xin tiền mà không được thì ngoác mồm chửi cha
mắng mẹ, có khi còn tay đánh chân đá, lúc sống không chịu giữ đạo hiếu, sau khi
chết bị chịu tất cả những hình phạt ở cá ngục khác xong còn bị chuyển tới đày
tại Ngục A Tỳ vĩnh viễn không được siêu sinh. Kính mong hai vị đại sư thương
tình xin giùm cho tôi được thoát khỏi ngục A Tỳ, đàu thai làm kiếp trâu chó tôi
cũng vui lòng, bởi vì ở đây quá đỏi thống khổ.
Tế Phật: Trăm đức thiện, đức hiếu đứng dầu, đã không biết phụng dưỡng lại còn
đánh đập cha mẹ, tội ác thật quá lớn. Tội bất hiếu luật ở âm phủ không tha, ta
không có cách nào cả.
Ngục Quan: Đời có lắm kẻ vì hư dục hôn nhân, vì tư lợi tiền tài mà phản bội cha
mẹ, những kẻ bất hiếu đó nếu như không sớm hối cải, sau khi chết chắc chắn sẽ bị
đày xuóng Ngục A Tỳ. Tội hồn thứ hai hãy mau cung khai.
Tội Hồn: Tôi lúc sống tham dâm hiếu sắc, nhiều lần cưỡng dâm con gái nhà lành,
dụ dỗ kết thân với quả phụ cùng nhận trẻ gái mồ coi làm con nuôi để giở trò ám
muội, tôi nghĩ rằng làm như vậy là được tận hưởng hạnh phúc ở cõi đời, nào ngờ
sau khi chết phải đớn đau thống khổ. Cuối cùng tôi còn bị phán đày tại Ngục A Tỳ
này vĩnh viễn không được siêu sinh. Kính mong sư phụ cứu mạng tôi, nếu như tôi
thoát khỏi được cảnh khổ đau này nguyện làm thân chó ngưa của ngài.
Tế Phật: Ta không cần dùng tới chó ngựa. Lúc sống hiếu sắc tham dâm, không đi
đường ngay lối thẳng, muôn tội ác tội dâm đứng hàng đàu, đã bị đày đoạ tại Ngục
A Tỳ còn hối hận được sao!
Ngục Quan: Tội hồn thứ ba, hãy mau thuật lại những hành vi đen tối lúc sinh
tiền.
Tội Hồn: Tôi lúc sống chuyên môn chế thực phẩm, thuốc thang rượu chè giả tạo như
thuốc tây, rượu tây, ruột ta, nước tương v.v... để kiếm lời thật nhiều. Vì tham
làm giàu một cách thất nhân thất đức như vậy cho nên sau khi chết bị đày tại
Ngục A Tỳ. Kính mong Phật Sống tế Công xin với Diêm Vương để Diêm Vương xá tội
cho tôi, kiếp sau được lên làm người tôi hứa sẽ an phận giữ mình, kiếm tiền một
cách có lương tâm.
Tế Phật: Chế rượu, thuốc giả mạo tội ác quá lớn, không nghĩ gì tới đạo đức, mạng
sống con người, thử hỏi nuốt những thứ đó vào bụng có khác gì uống thuốc độc,
người mất hết lương tri, hại người quá nhiều. Xử đày ngươi tại Ngục A Tỳ uống
nước đất đen để giải độc, mùi vị ra sao mi tự hiểu biết, còn ta hoàn toàn bất
lực.
Ngục Quan: Tội hồn thứ tư hãy mau thuật lại những hành vi ác độc lúc còn tại
thế.
Tội Hồn: Lúc sống tôi chuyên môn buôn lậu, hút á phiên chích ma tuý, sau vì xài
tốn quá nhiều tiền tôi buôn lậu luôn cả mấy thứ này, thành một đời hại quá nhiều
người. Sau khi chết Diêm Vương cả giận phán đày tôi vĩnh viễn tại Địa Ngục A Tỳ,
ở đây hàng ngày chịu thống khổ quá đỗi, hối hận lúc sống đã phạm vào tội ác quá
lớn, hiện tại vô phương cứu chữa.
Tế Phật: Buôn lậu là đã phản bội luật pháp quốc gia, lại còn buôn lậu cả ma tuý
để làm hại đồng bào, luật dương thế chẳng tha, luật âm phủ không cứu. Phàm tại
thế buôn lậu cùng nghiện ngập buôn bán ma tuý tội thật quá lớn, những kẻ phạm
phải tội này hãy mau mau buông dao đồ tể, làm lại cuộc đời, nếu như ngoan cố sau
khi chết chắc chắn sẽ bị đày xuống Ngục A Tỳ muôn ngàn năm chẳng thể siêu sinh.
Ngục Quan: Bốn tội hồn cung khai đã xong, hy vọng người đời sau khi đọc xong
sách Địa Ngục Du Ký, những ai trước đây đã trót phạm phải lỗi lầm, từ nay nếu
như biết ăn năn hối cải, ta sẽ sẵn sàng tha thứ, hy vọng người đời mau mau quay
dầu thức tỉnh, chớ có tham lợi lộc nhất thời mà bị sao vào đường cùng ngõ cụt.
Tế Phật: Thời giờ đã trễ, chúng ta chuẩn bị trở lại Hiền Đường.
Dương Sinh: Xin cáo từ Ngục Quan cùng chư vị Tướng Quân. Cảm tạ sự tiếp đãi nồng
hậu.
Ngục Quan: Lệnh cho các Tướng Quân hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Tế Phật: Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh: Thưa con đã sẵn sàng, mời ân sư trở lại Hiền Đường...
Tế Phật: Đã tới Thánh hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể
xác
...............................................
HỒI NĂM MƯƠI LĂM
DẠO ĐIỆN THỨ MƯỜI GẶP GỠ CHUYỂN LUÂN VƯƠNG
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 9 tháng 5 năm Mậu Ngọ (1978)
Thơ:
Thập Điện Diêm quan thiểu thuyết tình
Hoành hành đáo thử đảm tâm kinh
Không lưu vạn quán nhi tôn chỉ
Minh lộ chỉ văn khiếu khổ thanh.
Dịch:
Diện nọ Diêm Vuơng chẳng vị tình
Ngang tàng tới đó mật gan kinh
Bạc tiền để lại con vui hưởng
Âm phủ cha đi khóc một mình.
Tế Phật: Dạo âm ti đã tới điện thứ mười, Địa Ngục Du Ký đã gần tới đoạn chót,
nhưng đoạn chót này lại rất thảm vì điện thứ mười là điện chuyển bánh xe, chúng
sinh bị chuyển tới nơi trời đất tối tăm, mơ mơ hồ hồ chẳng rõ phương hướng đông
tay nam bắc là đâu. Tất cả chúng sanh sống nơi cõi thế đều muốn nhớ lại việc của
kiếp trước cho nên kẻ tu đạo đều tự hỏi rằng "ta là ai"? Nếu như trả lời được
"mình là ai" thì còn cần gì người đắc đạo. Bữa nay chuẩn bị dạo âm ti, Dương
Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh: Xin ân sư chầm chậm, thưa có người hỏi con là họ muốn in tặng sách
Địa Ngục Du Ký, thì cầu nguyện phải thắp nhang khấn trước mặt ông Táo, nhưng
hiện nay bếp nhà nào nhà nấy đều đun bằng hoả lò không đâu thấy còn ông "đồ rau"
(ba cục đất nặn cao dùng để bắt nồi lên đun nấu) thì làm cách nào kiếm được ông
Táo bây giờ?
Tế Phật: Nhà ở tiến từ bùn đất thấp bé tới xi măng cốt sắt cao to, mỗi người
sống trong đó đâu có phải vì thay đổi bếp mà người ta quên ông Táo, để mất tiêu
ông Tao luôn đâu. Thực ra chỉ là trang bị cho bếp đẹp đẽ hơn thôi. Nhớ lại thời
xưa bếp núc dơ dáy đầy khói, tro, mồ hóng mà thần Táo vẫn còn giáng lâm mỗi nhà
kia mà. Việc ăn uống của người đời đều phải lo liệu ở bếp, ăn uống là việc để
duy trì mạng sống, một ngày chẳng thể thiếu, cho nên có câu: "Hữu yên chi xứ tức
hữu nhân" (Nơi nào có khói tức có người). Do đó nhân số thịnh suy mới gọi là
"nhân yên" (khói người). Hiệu quả của ông Táo công gọi là "Ty Mênh Chân Quân" là
vị chủ tể coi về mạng sống của Trời và thức ăn của đất ban cho con người. Bếp
xưa lò nay giống nhau vì đều dùng lửa nấu ăn, nên chẳng có chi khác biệt, cho
nên còn gọi là Táo Thần là hoả Thần, cũng gọi là "Hoả Đức Tinh Quân" (Vua Sao
đức lửa). Lấy thần đèn mà luận thì ngày xưa châm dầu vào đèn ngày nay bật công
tắc, tuyệt nhiên không vì thế mà thần Thánh không giá lâm đền đài miếu mạo.
Chẳng kể khoa học phát đạt, kiến trúc cao ốc trăm tầng, tính linh của con người
vẫn không hề giảm, Thần Thánh vẫn ở sát bên ta, ông Táo vẫn ở trước mắt ta.
Dương Sinh: A thì ra là thế, nhà cửa tuy kiến thiết tói tân, nhưng gạo, muối,
dầu, dấm vẫn dùng như xưa. Con đã lên đài sen, mời ân sư khởi hành...
Tế Phật: Đã tới, xuống đài sen.
Dương Sinh: Điện thứ mười ở trước mắt, đám đông ồn ào kia hình như tới nghinh
tiếp chúng ta.
Tế Phật: Đúng rồi, chuyển Luân Vương dẫn Minh Quan cùng Tướng Quân ra nghinh
tiếp chúng ta, con mau đến làm lễ ra mắt.
Dương Sinh: Lạy chào ra mắt Chuyển Luân Vương, kẻ hậu sinh là môn sinh của Thánh
Đế thuộc Thánh hiền Đường ở Đài Trung, phụng chỉ dạo thăm âm phủ viết sách, nay
tới Điện Thứ Mười, kính xin Minh Vương giúp đỡ phương tiện.
Minh Vương: Chớ khách sáo, hai vị từ Đệ Nhất Điện tới Đệ Thập Điện, trải qua hầu
hết những ngã đường tối tăm, công cứu đời quả là cao sâu, kính mời vào trong
điện nghỉ ngơi.
Dương Sinh: Đa tạ Minh Vương .
Tế Phật: Vì thời giờ có hạn, tôi thấy chẳng cần phải nghỉ ngơi, xin trực tiếp
dẫn Dương Sinh đi thăm các khu của Điện Thứ Mười, chẳng rõ ý của Minh Vương thế
nào?
Minh Vương: Ý của tế Phật đã như vậy, tôi cũng xin vâng.
Dương Sinh: Điện Thứ Mười có điểm đặc biệt là tội hồn quá đông, vượt hẳn các
điện phủ khác là tại sao?
Minh Vương: Bởi vì bản điện là địa ngục cuối cùng trong số các Điện Phủ . Chúa
tể Chuyển Luân là cửa ải của đường ra ngoài vĩ đại, cho nên các âm hồn ở âm phủ
được chuyển bánh xe đều tụ tập tại đây nên trách vụ của bản điện cũng rất bận
rộn và phức tập, để tôi đưa lên "Quan Sinh Đài" (Đài xem sự sống) tham quan.
Dương Sinh: Đa tạ. Đài này quá cao, thang lầu "Hồi chuyển" bắc thẳng lên mây,
leo lên hẳn là hoàn toàn kiệt sức.
Tế Phật: ta giúp sức con một tay để con leo lên.
Dương Sinh: Cảm tạ sự giúp đỡ của ân sư.
Tế Phật: Muốn lên thang trời mà không dùng tâm lực thì làm sao lên nổi? Tu đạo
không cầu tiến cuối cùng cũng chẳng thể lên cao.
Dương Sinh: Đã lên tới chóp đỉnh, phía trên giống hệt như cái đài quan sát, phía
trước chỉ nghe tiếng rì rầm hỗn tạp, nhìn bốn bề mênh mông không thấy bến thấy
bờ, đây là đâu đây?
Tế Phật: Muốn lên Đài Quan Sát Sự Sống phải leo hết 360 bực thang lầu, con số
dmột vòng trời, chúng ta ở đây cũng đã là Thiên Đài nên cách âm phủ cũng rất xa.
Phía trước mênh mông một dải chính là Tứ Đại Bộ Châu, bởi mắt huệ của con chưa
khai mở cho nên tâm nhìn bị giới hạn, để ta ném một viên ngọc sáng xuống.
Dương Sinh: Ân sư ném viên ngọc sáng ra như đêm sương gặp ánh sáng, quả nhiên
cảnh sắc cực xa ở phía trước con đều thấy rõ . Nhìn phía trước giống như từ trên
không trung nhìn xuống mặt đất lớn vậy. Cảnh trí bốn phía khác biệt nhau, phía
kia giống như nước Mỹ dân chúng cư ngụ đông đúc, người đi lai và nhà cửa kiến
trúc giống y như hình ảnh chiếu trên màn bạc.
Tế Phật: Quả đúng, đất đó là nước Mỹ, ở trên Thiên Đài có thể nhìn thấy hình ảnh
của khắp Tứ Đại Bô Châu. Bánh xe chuển vận của Điện Thứ Mười như rắc hoa khắp
trời, tuỳ nhân duyên mà chuyển sinh nơi các xứ. Đài đã xem xong, chúng ta xuống
chứ.
Dương Sinh: Dạ dạ.
Tế Phật: Vì thời giờ đã muộn tình hình các ty cua Điện Thứ Mười ngày khác tới
thăm tiếp, xin cáo từ Minh Vương.
Minh Vương: Thời giờ đã trễ chúng tôi chẳng thể lưu giữ. Lệnh cho các quan viên
hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Tế Phật: Dương Sinh lên dài sen.
Dương Sinh: Con đã sẵn sàng, mời ân sư trở lại hiền Đường.
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI NĂM MƯƠI SAU
DẠO ĐIỆN THỨ MƯỜI THĂM HỎI SỞ CHUYỂN KIẾP
Phật Sống Tế Phật
Giáng ngày 19 tháng 5 năm Mậu Ngọ (1978)
Thơ:
Luân hồi lục đạo thán vô kỳ
Hướng thiện cần tu thiếu tráng thì
Nghịch nhĩ trung ngôn quân thiết ký
Thần tiền sám vãng thượng năng truy.
Dịch:
Luân hồi sáu ngã khổ muôn đời
Hướng thiện tu ngay thuở thiếu thời
Tiếng sấu lời hay ghi nhớ mãi
Ăn năn Tiên Thánh mới nên người.
Tế Phật: Sáu ngã luân hồi như bánh xe chuyển động không lúc nào ngừng nghỉ, kẻ
bị kẹp dưới bánh xe thành "quỉ bánh xe" rất hiếm có cơ hội trốn thoát tìm đường
sống. Hy vọng trong cái chết chúng sanh tìm ra được cái sống, chớ nhắm gầm xe,
miệng cọp mà đâm đàu vào. Còn như sợ hay không sợ phải vào cửa địa ngục thì tin
rằng đã là kẻ thông minh hẳn đều hiểu rằng nên lánh xa là hay hơn cả, để còn kịp
đến nước Thần Tiên sám hối lỗi lầm quá khứ hầu kịp chuyến xe tiến về tương lai.
Sửa soạn dạo âm ti, Dương Sinh lên đài sen.
Dương Sinh: Thưa, con đã chuẩn bị xong, mời ân sư lên đường .
Tế Phật: Bữa nay lại tới thăm Điện thứ Mười gặp gỡ Chuyển Luân Vương... đã tới
nơi, xuống đài sen.
Dương Sinh: Chuyển Luân Vương đã chờ sẵn phía trước để nghinh đón chúng ta.
Minh Vương: Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiên Sinh lại tới thăm bản Điện Thứ
Mười, lần trước vì thời giờ eo hẹp cho nên chưa thể giới thiệu tỉ mỉ cặn kẻ
được. Bữa nay có dịp may gặp lại tôi xin thân hành hướng dần hai vị đi thăm các
ty.
Dương Sinh: Cảm tạ Minh Vương đã tận tình chỉ giáo.
Minh Vương: Điện Chuyển Luân tuyệt đối không vì tình riêng, người nào nhận
nghiệp báo của người đó, chuyển động chuyển tây, vãng nam vãng bắc đều căn cứ
theo nhân duyên tạo tác của mỗi chúng sanh mà định. Bữa nay tôi xin hướng dẫn
hai vị tới thăm Sở Chuyển Kiếp.
Tế Phật: "Đạo" và "kiếp" khác nhau, kẻ hướng về "đạo" chân thành tu tập thì đắc
"đạo" quả, lên thiên đường không phải tới Sở Chuyển Kiếp. Còn như kẻ không tuân
đạo đức, phản bội luân lý tự nhiên gặp "kiếp" và phải chịu sự phán quyết của các
ty sở chuyển kiếp.
Minh Vương: Mau đi theo tôi, phạm vi sở chuyển kiếp cực rộng, các ty có người lo
liêu các hồ sơ án lịnh, sở chuyển kiếp của bản điện chia làm tám ty, hai vị tới
sở nghỉ ngơi, tại đây sẽ giới thiệu tình hình các ty, hầu tiện việc thông báo
cho người đời được rõ.
Dương Sinh: Phía trước có biển đề "Sở Chuyển Kiếp" tội hồn do âm binh áp giải
tới quá đông, âm binh đều phải trình hồ sơ lên các quan viên, không rõ họ sẽ
giải quyết ra sao?
Minh Vương: Mời hai vị vào trong nghỉ ngơi tôi sẽ giải thích rõ vấn đề.
Dương Sinh: Các quan viên trong sở mới chợt nhìn thấy chúng tôi đã đình mọi công
tác, tất cả đều nghiêm chỉnh sẵn sàng đón tiếp chúng tôi.
Tế Phật: Dương Sinh ngồi xuống đi. Minh Vương đã hậu đãi như thế này con chớ có
rụt rè.
Minh Vương: Đây là vị Trưởng Sở của Sở Chuyển Kiếp.
Trưởng Sở: Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh tới thăm, việc phụng chỉ
viết sách tuy tốn hao nhiều máu và mồ hôi những công lao vô cùng sâu dầy.
Minh Vương: Mời quý vị dùng trà. Tôi xin giới thiệu tình hình 8 ty lớn của Sở
Chuyển Kiếp để thế nhân hiểu rò thứ tự của việc chuyển kiếp luân hồi. Đầu tiên
người chết phải qua Phúc Thần, Thành Hoàng, âm binh hoặc quỉ Hắc Bạch Vô Thường
dẫn nhập Quỉ Môn Quan cùng tới Giao Bạ Sảnh khai hồ sơ lý lịch. Dù tới để du
lịch hay nhận lãnh hình phạt cũng phải tuần tự trải qua từ điện số 1 tới điện số
9. Kẻ có tội đã hoàn tất việc thụ lãnh hình phạt thì được giao qia bản điện
chuyển kiếp luân hồi, nơi quan trọng nhất của bản điện là Sở Chuyển Kiếp. Sở này
được chia làm 8 ty: 1. Ty Tra Nghiệm, 2. Ty Kế Thiện, 3. Ty Khảo Quá, 4. Ty Ân
Oán, 5. Ty Thọ Mệnh, 6. Ty Chi Phối, 7. Ty Chưởng Kiếp, 8. Ty Thụ Sinh.
1. Ty Kiểm Tra: Ty này lãnh nhiệm vụ sưu tra những tội hồn sau khi các điện đã
xét xử và trừng phạt xong, thủ tục này có hoàn tất tội hồn mới được lãnh giấy
chứng nhận hết can án. Trước khi đầu thai phải đến Ty Kiểm Tra khai báo để ty
này kiểm soát lại xem thủ tục ở các ngục trước đây đã thực hoàn chỉnh chưa và
đúng hay sai. Nếu như sai hoặc không hoàn chỉnh sẽ bị kêu trở lại ngay lập tức.
Phải làm như vậy là để phòng ngừa sự làm việc tắc trách của các âm hồn.
2. Ty Kế Thiên: Ty này sưu tra những người làm việc thiện xem họ đã hành thiện
được nhiều hay ít rồi mới quyết định cho họ hưởng phúc trạch day hay mỏng. Lúc
sống nếu như chịu tu nhân tích đức sẽ được đầu thai làm con trai nơi phước địa,
lớn lên làm quan, nhẹ bước thanh vân, công danh hiển đạt, là phú thương ở nhà
lớn, của cải nhiều vô số kể, là kẻ tay trắng sau có gia cư, là kẻ được hưởng
phúc trạch của tổ tiên trọn đời vinh hoa phú quí, nếu đầu thai làm con gái cũng
được là vợ quí nhân đạt quan hưởng phúc ấm, lại sinh con quí tử, lúc làm cha mẹ
sẽ được hưởng phúc khi con khôn lớn. Trường hợp của những người vừa kể trên đều
là do lúc sống có công lớn tu nhân tích đức, đó là luật phúc báo do ty này thi
hành, một sợi tơ, một cọng lông không thể sai trệch. Đây chính là trách vụ của
Ty Kế Thiện.
3. Ty Khảo Quá: Ty này chuyên khảo hạch kẻ sắp đầu thai có hay không có tội lỗi.
Nếu kẻ đàu thai muốn chuyển kiếp làm người ắt bị khảo sát sưu tra tội ác lỗi lầm
nặng hay nhẹ, nhiều hay ít. Nếu là kẻ lúc sống thiện tâm ít ỏi, làm lỗi sơ sơ,
sinh ra đời được cơm no áo ấm, được bóng râm của cha mẹ che chở, chồng vợ hoà
thuận, con cái hiếu thảo. Kẻ công tội tương đương ra đời là người bình thường,
sống lâu, áo cơm đủ ăn đủ mặc, cha mẹ vợ chồng con cái sum hợp, sống suốt đời
vất vả không được hưởng phúc thong dong. Kẻ không có công mà có tội ra đời phải
chịu lận đân, đói rét, nghèo hèn, cô quả, cha con anh em chồng vợ khuyết hãm. Kẻ
tội quá nặng ra đời chịu dần cùng khốn khổ, bị tàn tật, đàu và tay chân bất
toàn, bị bệnh ngớ ngẩn, điếc, mù, câm, làm ăn mày. Như con trai lúc sống buông
bỏ ngũ luân bát đức, con gái không giữ tam tùng tứ đức, tạo nghiệp ác quá nặng
ắt bị phạt đầu thai làm kiếp súc sinh, hoặc côn trùng sâu bọ. Đó là luật ác báo
do Ty Khảo Quá đảm trách.
4. Ty Ân Oán: Ty này coi việc đầu thai làm con trai hay con gái ra đời để đền ơn
báo oán. Như kiếp trước chịu ân huệ của người tình còn ràng buộc, được lịnh ra
đời đền đáp họ. Kiếp trước mắc cái nợ chửi mắng, khinh khi, tranh giành, tới
chết oán khí chưa tiêu cũng được ra đời báo đền, do đó nói "Đức báo đức, cừu báo
cừu, oán báo oán". Lại có loại oan hồn phụ nữ si tình quá nặng, lúc sống cắn
răng chịu nổi oán cừu mà chưa có dịp báo thù, sau khi chết không thích làm người
thích làm quỉ dữ bắt hồn kẻ địch phải chết vì tai nạn dọc đường cùng ở chốn hang
sâu núi thẳm để báo thù một cách thảm thiết. Bản ty này xét cái quả thấy có nổi
oan ức đó nên cho phép báo oán để an ủy cái tâm của kẻ chết. Đó là chức vụ của
Ty Ân Oán.
5. Ty Thọ Mệnh: Ty này nắm giữ tuổi thọ của những người có tài năng danh vọng.
Những người sống ở thế gian được hưởng phú quí và trường thọ, người được hưởng
phú quí nhưng đonả thọ, kẻ đã nghèo còn tổn thọ, người nghèo mà sống lâu, ra đời
để chịu chết đuối, chết đau buồn, sinh ra được ít ngày ít tháng ít năm thì chết
yểu, nhiều trường hợp không giống nhau. Kẻ phạm pháp mà chết, những người bị kẻ
khác mưu hại, tất cả đều có số mệnh. Đó là trách nhiệm của Ty Thọ Mệnh. Nhưng
còn nói về kẻ chết oan, sinh ra làm người, không biết giữ phận, gặp hoạ quẩn trí
tự giết mình, làm việc không cẩn thận đưa đến cái chết là do mình không do số
mệnh.
6. Ty Chi Phối: Ty này chi phối việc cha con chồng vợ của thế nhân. Nếu người
đời sinh ra con trai có hiếu hay bất hiếu, lấy vợ là hiền phụ hay ác phụ đều có
căn do, họ gặp nhau đều do duyên tiền định. Như tên Giáp lúc sống thường cho tên
Ất vay tiền, tới chết nếu chưa trả nổi, tuy Ất không có tội nhưng khi chuyển
kiếp làm người, luật âm phủ sẽ bắt tên Ất đầu thai làm con trai hiếu thảo của
tên Giáp để đền ơn, nên gọi là con cái trả nợ cha mẹ. Lại ví dụ tên Giáp lúc
sống dùng mưu kế chiếm đoạt của cải của tên Ất khiến tên ất uất hận mà chết, sau
khi chết tên Ất tố cáo tên Giáp với Minh Vương. Luật âm phủ phê chuẩn tên Ất tái
đầu thai làm con trai kiêu căng dâm dật phá hoại gia cang của tên Giáp thì đó
gọi là con cái đòi nợ bố mẹ. Chồng vợ cũng vậy kẻ lấy được vợ thảo, sanh con đẻ
cái thành mẹ hiền, kẻ lấy vợ ác độc dâm loàn, gặp sự tốt lành hay oé le đều do
nhân duyên thiện ác xui nên, kiếp trước tao nhân, kiếp sau ắt nhận quả báo hết
sức công bằng, không sai trệch mảy lông sợi tóc. Đó là trách vụ của Ty Chi Phối.
7. Ty Chưởng Kiếp: Ty này lo việc vô sổ những người chuyển kiếp luân hồi, như
người đại thiện được hưởng phú quí mấy đời, kẻ đại ác phải chịu cùng khổ bao
đời, kẻ nghiệp nặng phải đoạ làm súc vật mấy kiếp, có thể trở lại làm người hay
vĩnh viễn đoạ làm côn trùng sâu bọ đều có ấn định rõ rệt, cho nên nói "số mệnh
khó tránh". Đến như kẻ có số được hưởng phú quí nhưng lại đột nhiên tạo ra ác
nghiệp, kẻ số chịu cùng khổ nhưng gắng tu nhân tích đức, thiện ác cân nhắc bù
qua sớt lại, hạn cùng khổ được thâu ngắn lại. Chon nên nói "Cần năng bổ khuyết
hý năng phí thời" (chăm chỉ thì được bù đắp, vui chơi thì phí thời gian). Ngoài
ra còn ó ba đài Bắc Đẩu Thần Quân, phụng Ngọc chỉ của Ngọc Đế giám sát rồi thông
báo choMinh Vương để Minh Vương ra lệnh cho ty này giảm bớt hoặc gia tăng. Đó là
chức vụ của Ty Chưởng Kiếp.
8. Ty Thụ Sinh: Ty này coi việc đầu thai cho chúng sanh nên chuyên cung cấp
những bằng chứng hiển nhiên. Người chết sau khi bị các điện phán xét và trừng
trị xong, đến lúc chuyển kiếp luân hồi đầu thai thì hồ sơ lý lịch lưu giữ ở ty
trên được giao qua Ty Thụ Sinh lo liệu tiếp, sau khi hoàn tất xong nếu được đầu
thai thì được cấp giấy chứng nhận, và quan coi việc đầu thai mới được phép
chuyển kiếp luân hồi. Nếu là kẻ sĩ sẽ lãnh nghiên bút, là thương gia lãnh bàn
toán, là nhà nông lãnh cầy bừa, là thợ thuyền lãnh dụng cụ, là muông thú chim
chóc loài nào lãnh loại lông của loài đó rồi đầu thai. Kẻ nào làm nghê nấy, đúng
lúc hợp cơ duyên. Song vì nghiệp quả không giống nhau nên cần phải có giấy chứng
nhận mới có thể đầu thai. Đó là chức vụ của Ty Thụ Sinh. Tám Ty trên là nơi
chúng sinh lãnh bằng chứng chuyển kiếp đầu thai, đã nhập luân hồi tức kể như là
số kiếp cho nên nói "chuyển kiếp". Vì thời giờ đã trễ, sự kiện luân hồi bữa khác
sẽ thảo luận kỹ càng hơn.
Tế Phật: Đã tới giờ, chuẩn bị trở lại Hiền Đường, đa tạ sự giảng giải của Minh
Vương.
Dương Sinh: Làm phiền Minh Vương tốn công giảng giải, xin tạm biệt...
Tế Phật: Đã tới Thánh hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI NĂM MƯƠI BẢY
DẠO ĐIỆN THỨ MƯỜI THĂM QUÁN BÀ MẠNH
Phật Sống tế Công
Giáng ngày 26 tháng 5 năm Mậu Ngọ (1978)
Thơ:
Thập điện du hoàn công diệc viên
Thâu tài ấn tống quảng lưu truyền
Bảo thư giá trị linh chi quí
Giáo hoá nhân tâm quan thánh hiền.
Dịch:
Điện nọ thăm xong mọi việc yên
Góp tiền in tặng để lưu truyền
Sách hay hoa lạ bao yêu quí
Dạy dỗ người đời học Thánh Tiên.
Tế Phật: Dạo âm ti tới Điện Thứ Mười, từ hai năm nay, chư sinh bảo hộ pháp lý
giúp đỡ viết sách người ngoài họ tưởng là phạt đứng lâu như vậy hẳn là có chuyện
gì đây? Kỳ thật, đứng lâu như vậy mới là thế đứng chính đáng, mới là động tác cơ
bản của kẻ xử thế, tu đạo phải đứng thật lâu mà vẫn không khó chịu, nếu đứng
xiêu vạo ngã nghiêng làm sao thành được Đại La Kim Tiên? Mọi người đều tưởng nằm
thẳng dẳng trên nệm, thư nhàn sảng khoái, nếu thế sẽ giống hệt thứ tiên lười,
quỉ biếng chẳng thể ngang nhiên đứng thẳng lưng, làm tay hảo hán đè mây lướt
gió. Dương Sinh nghe ta nói có đúng không?
Dương Sinh: Thưa đúng lắm, ân sư dạy như vậy tất là chính đáng, bởi lẽ chân đứng
không vững tức là không có lập trường, đất đứng đã không có nói chi tới tu đạo?
Tế Phật: Kẻ đứng không vững hẳn là nằm ngồi cũng chẳng yên, cho nên tu đạo trước
hết phải "lập định" rồi sau mới làm chủ được bản tính, mới thâu hồi nổi cái tâm
rối rắm động loạn. Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen, chúng ta bữa nay kiếp tục
dạo thăm Điện Thứ Mười.
Dương Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, xin ân sư hãy khởi hành.
Tế Phật: Đã tới nơi, Dương Sinh xuống đài sen.
Dương Sinh: Điện Thứ Mười, Minh Vương ở phía trước, xin chào ra mắt.
Minh Vương: Miễn lễ, hai vị bữa nay lại tới thăm, rất hoan nghênh. Bừa trước chỉ
mới thăm Sở Chuyển Kiếp, tạm giới thiệu tình hình các ty, bữa nay hẵn là sẽ được
tình hình sáu ngã luân hồi, vì thời giờ có hạn chúng ta mau đi tới phía trước.
Dương Sinh: Cảm tạ sự hậu đãi của Minh Vương cùng sự hướng dẫn của chư vị quan
viên... Đã tới Sở Chuyển Kiếp bữa trước, người ta quá đông đúc, gồm đủ mọi giống
người thuộc các nước từ Á qua Ân họ đang chuẩn bị đầu thai chăng?
Minh Vương: Người đời sau khi chết, phàm những kẻ phạm tội đều phải qua các ngục
để xử trị cho nên địa ngục cũng giống như "Quốc tế Pháp Định". Các loại nhân sĩ
chuyển kiếp luân hồi đầu thai đều lo lãnh giấy chứng nhận, giống như dương gian
xuất ngoại phải lo giấy xuất cảnh vậy.
Dương Sinh: Đã tới Ty Thụ Sinh, trong này người càng đông hơn, giống như cảnh
chen chúc nơi bến xe đò.
Tế Phật: ha ha, đây đều là những người muốn lên đài chuyển kiếp luân hồi, như
cảnh dương gian tại bến đợi xe, xe vừa nổ máy bánh không ngừng chuyển động. Chỗ
hành khách mua vé tình quá nhỏ người mua vé đi các nơi là những âm hồn chuyển
kiếp đầu thai các chốn trên thế giới lại quá đông.
Minh Vương: Tế Phật nói rất đúng, người đời sau khi chết phải qua các điện để
xét xử và thụ hình mới được đưa đi đầu thai. Đường luân hồi quá vô tình, tuy
cùng đi một chuyến xe chuyển kiếp luân hồi nhưng mục đích của mỗi kẻ lại khác
nhau, nhân duyên của mỗi người không giống nhau, vẫy tay xuống xe, một đời chi>
hay lo lúc sinh hoạt trong cùng một hoàn cảnh.
Dương Sinh: Phía trước người ta tu tập quá đông, giống như đang uống nước trà đá
lạnh để giải khát. Bữa nay trời quá nóng nực, tôi cũng khát nước quá, tới trước
uống một ly cho khỏi khát có được không?
Minh Vương: Không thể được, đó là quán Bà Mạnh, kẻ đầu thai đều phải húp "cháo
lú", nếu như Dương Sinh húp phải, sau khi trở lại trần gian liệu có tránh khỏi
là kẻ mơ mơ hồ hồ, quên hết mọi sự không còn nhớ gì nữa không?
Dương Sinh: Lợi hại tới mức đó sao?
Tế Phật: Con chớ tưởng đùa, Minh Vương không nói giỡn đau.
Dương Sinh: Quán bên đường quả nhiên có đề ba chữ Mạnh Bà Đình (Quán bà Mạnh).
Xin Minh Vương giới thiệu tình hình ở đây cho tôi rõ được không?
Minh Vương: Mạnh bà Đình do Bà Mạnh cai quản, bà ta phụng Mệnh Ngọc Đế phụ trách
công tác cho các âm hồn húp cháo lú trước khi đầu thai, vì nếu không sau khi đầu
thai sẽ nhớ lại chuyện tiền kiếp, hài nhi sẽ tìm kiếm và nhận ra thân thuộc, tạo
nên cảnh lớn bé vô trật tự, ngũ luân không còn phân biệt, kiếm thù oán, đời sẽ
đại loạn. Vì vậy tạo vật đã biến hoá một cách kỳ diệu, dùng cháo lú để cho kẻ
đầu thai húp vào quên hết mọi chuyện kiếp trước. Cháo này có đủ năm vị chua,
cay, măn, ngọt, đắng hổn hợp, cho nên uống vào không còn biết đông tây nam bắc,
đầu óc quay cuồng mơ mơ hồ hồ tự rơi vào một trong sáu ngả của bánh xe chuyển
kiếp.
Tế Phật: Thứ "cháo lú" này cũng là "cháo mê hồn" vì sau khi ăn vào thân hồn điên
đảo, dương gian cũng có loại cháo này.
Dương sinh: Thưa, con chưa từng nghe nói.
Tế Phật: Cũng như rượu vậy, con hãy nhìn kẻ uống rượu quá độ, không còn phân
biệt được đông tây nam bắc đi lầm đường lạc lối, thậm chí sai cả nhà, giống như
kẻ mất linh hồn, có như vậy mới có thể lăn vào vòng luân hồi. Kẻ không muốn đâu
thai ác đạo thì đâu dám ăn tới? Kẻ say rượu dám băng mình qua biển lớn, dám đút
đầu dưới bánh xe, nước lửa không sợ, gan mật quá lớn! Trong lúc họ mê man bất
tỉnh, bị rơi vào vòng luân hồi mà chẳng hay. Một sớm dã rượu tỉnh lại thì đã xa
trời, giống hệt như đầu thai chuyển kiếp một sớm bừng sáng tỉnh lại thấy xa cách
cõi đời ở giữa khổng trời đất khác.
Dương Sinh: Cháo lú diệu dụng như vậy cho nên người đời sau khi chết ai mà chẳng
uống.
Minh Vương: Dương Sinh còn có điểm chưa rõ, âm hồn sau khi qua các điện sữa trị
lúc tới đây thì sự đói khát đã tới mức cùng cực, Điện Thứ Mười lại giáp giới
dương gian, phía ngoài quán bà Manh nóng như thiêu như đốt, phàm âm hồn tới đây
đều muốn vào quán uống trà đá giải khát, đó chẳng phải là tự đâm đầu vào lưới
sao? Nếu ngày hè nóng nực đi hàng vạn dậm đường hẳn là miệng cảm thấy khát vô
cùng, tại cuối con đường có một cái quán mát mẻ, lại có trà đá lạnh uống không
phải trả tiền, ai mà chẳng tranh uống trước? Có kẻ còn cho một ly là quá ít, bèn
rót lấy rót để chẳng ngừng. Dầu vậy bọn giảo hoạt tới đây, tuy miệng khát nhưng
vì rõ thứ cháo này lợi hại nên không vào quán Bà Mạnh ăn uống tức thì mặt đất tự
nhiên bắn ra một móc sắt móc chặc lấy người khiến chẳng thể giãy giụa, rồi gái
hầu của Mạnh Bà cưỡng bức đổ vào miệng. Đó gọi là "rượu dâng không uống uống
rượu phạt" vậy.
Dương Sinh: Dĩ nhiên là húp cháo này có thể quên việc kiếp trước nhưng tại sao
hiện nay trẻ thơ trên thế gian ra đời lại có thể thông minh hiểu biết bội phần,
có phải tại phẩm chất cháo này kém cỏi không?
Minh Vương: Dương Sinh có điểm còn chưa rõ, vì từ vô thuỷ tới nay, con người đã
trải qua ngàn vạn kiếp luân hồi, húp cháo lú đã quá nhiều lần, lâu rồi trở thành
thói quen, do đó mà trẻ con sinh ra ngày nay mới vô cùng khôn ngoan, cho nên nói
"đầu quỉ óc quỉ" là bởi vì húp cháo lú nhiều lượt dần thành thói quen cho nên
đầu óc nó khôn ngoan tinh xảo. Đó chẳng phải là điều tốt, hãy nhìn kẻ nghiện
rượu, uống mãi chẳng say, mất hết tri giác, thật quá tàn nhẫn. Cho nên thế gian
càng ngày càng nhiều kẻ bất nhân bất nghĩa, càng lắm kẻ linh hoạt tinh ranh nên
dễ bị lạc đường. Do đó trí xảo có gì là đán mừng đâu?
Dương Sinh: A thì ra là thế.
Tế Phật: Đã cận giờ, tình hình sáu ngã chuyển kiếp lân hồi kỳ tới sẽ lại tìm
hiểu tiếp cũng được.
Dương Sinh: Cảm tạ Minh Vương chỉ rõ bến mê, khai mở nhiều lẽ thâm diệu để chỉ
dẫn chúng sanh, quả khó mà có được! Khó mà có được! Xin cáo từ.
Minh Vương: Dương Sinh mau lên đài sen chuẩn bị trở lại Hiền Đường.
Dương Sinh: Con đã sẵn sàng, mời ân sư trở lại Hiền Đường.
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuóng đài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI NĂM MƯƠI TÁM
DẠO ĐIỆN THỨ MƯỜI THĂM SÁU NẺO LUÂN HỒI
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 3 tháng 6 năm Mậu Ngọ (1978)
Thơ:
Nhất nhất nhân thân vạn kiếp nan
Đoan hành đạo đức chính y quan
Bạt mao đái giác phi vi bối
Thuỷ lục đầu sinh sương nguyệt hàn.
Dịch:
Một mất thân mình vạn kiếp nguy
Tuân theo đạo đức chỉnh xiêm y
Sừng lông xác mọc đời phi nghĩa
Đất nước sương trăng lạnh noãn thai.
Tế Phật:Nếu không tu để kiếp người rớt xuống kiếp cầm thú thì sẽ bị khổ sở tới
vạn kiếp, bởi vậy phải lo sửa đổi y phục cho trang nghiêm, tuân hành đạo đức
sống ngay thẳng. Nếu không bị đầu thai làm kiếp thú mình mọc sừng lông hành động
phi nghĩa, làm kiếp sâu bọ chui rúc chốn đất bùn nước **c, gió trăng sương tuyết
lạnh lùng. Bữa nay chuẩn bị dạo âm ti, Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh: Xin vâng lệnh, thưa tại sao ân sư không nói thêm nhiều câu nữa?
Tế Phật: Lắm lời ắt sẽ sai lầm, nói nhiều ắt sinh quái gở, do đó nói ít là hay
hơn cả, nói nhiều giá trị cũng chẳng bằng tiền.
Dương Sinh: Vâng vâng, con đã lên đài sen, chuẩn bị sẵn sàng...
Tế Phật: Đã tới nơi . Bữa nay trở lại Điện Thứ Mười xem rõ thực trạng sáu ngả
luân hồi, con phải gắng lên tinh thần... Minh Vương Điện Thứ Mười đã tới.
Dương Sinh: Vái chào ra mắt Minh Vương.
Minh Vương: Hoan nghênh hai vị tới thăm bản điện, lần trước chỉ mới đến xem quán
Bà Mạnh, hôm nay phải tới xem xét cảnh trí đài Chuyển Kiếp Luân Hồi. Mời tế Phật
cùng Dương Thiện Sinh theo tôi tới phía trước.
Dương Sinh: Cảm tạ Minh Vương lại một lần nữa hao tổn tinh thần để hướng dẫn và
giảng giải chúng tôi thấu hiểu.
Minh Vương: Không có chi, đấy là nhiệm vụ của tôi. Chúng sinh ở dương gian nếu
như không cải tà qui chánh ắt hẳn đài Chuyển Kiếp Luân Hồi sẽ quay miết không
ngừng thì chúng sanh quả là bất hạnh.
Dương Sinh: Dòng sông phía trước nước đỏ cuồn cuộn chảy, đó là sông gì vậy?
Minh Vương: Đó là Xích Hà (Sông Đỏ) tức dòng tinh huyết giao hợp của chúng sinh
tuôn chảy, nhìn sông đỏ cuồn cuộn chảy tựa tình dục của chúng sinh dào dạt vô
chừng.
Dương Sinh: Bên sông còn có vật gì giống như hình chiếc bánh xe chuyển động
không ngừng?
Minh Vương: Đó là đài Bánh Xe Chuyển Tiếp (Chuển Luân Đài) cũng là Xe Sông Tía
(Tử Hà Xa) đang chìm nổi trong sông Đỏ, quay miết không ngừng.
Dương Sinh: Tại sao bên cạnh còn có thêm cây cầu bắc qua?
Minh Vương: bản điện là chốn chuyển kiếp luân hồi, biên giới âm phủ tới đây là
chấm dứt, cho nên cây cầu là điểm nối các ngã đường khấp chốn. Tiếp theo còn có
6 cây cầu khác cắt bằng vàng, bạc, ngọc, đá, gỗ, tre.
1. Cây Cầu Vàng: Phàm tại thế gian có công lớn tu nhân tích đức, sau khi đi thăm
các ngục, được âm phủ phê chuẩn cho băng qua cầu này lên thiên đường. Nếu như
công quả tròn đầy, là kẻ sĩ chân tu sau khi chết, có người chỉ mới tới âm dương
giới (biên giới âm phủ và dương gian) là lên thiên đường cực lạc ngay, không
phải đi qua cầu này.
2. Cây Cầu Bạc: Phàm tại thế tu nhân tích đức đạt mức trung, sau khi chết tới Sở
Tu Thiện tu luyện, thời kỳ khảo hạch thông thuộc kinh điển, nếu trúng tuyển được
tới "Cửu Tuyền Bộc Bố" (Thác Cửu Tuyền) thanh tẩy tính linh, qua cầu này lên
dương thế nhậm chức thần, tiếp nhận sự sùng bái của cả hàng vạn người, nhang
khói không dứt.
3. Cây Cầu Ngọc: Phàm tại thế có công tích thiện, sau khi trải qua sự thẩm xét
của các điện xong được đầu thai nơi nhà kẻ phú quí chốn phúc địa ở cõi dương
gian, sẽ qua cầu này mà vào đài chuyển kiếp luân hồi đầu thai.
4. Cây Cầu Đá: Phàm tại thế công tội ngang nhau đầu thai làm thường dân, qua cầu
này vào đài chuyển kiếp luân hồi.
5. Cây cầu Gỗ: Phàm tại thế tội nhiều hơn công sẽ đầu thai làm giới bần tiện hạ
cấp, chịu nghèo khổ cô quả, sẽ qua cầu này mà vào đài chuyển kiếp luân hồi.
6. Cây Cầu Tre: Phàm tại thế phạm tội ác quá lớn, phản bội thiên lý nhân luân,
trộm cướp giết người dâm loạn ác nghiệp tràn đầy, sẽ đầu thai làm loài thai (
súc vật) noãn (chim muông) thấp (cá tôm cua) hoá (côn trùng) qua cầu này mà vào
đài chuyển kiếp luân hồi.
Dương Sinh: Đa tạ Minh Vương đã khai mở . Tại sao trên cầu Vàng và Bạc dấu chân
người quá ít, còn cầu khác quá đông đúc giống như cố chen chúc đuổi theo cho kịp
thời giờ.
Tế Phật: "Ta đi cầu gỗ dành riêng của ta, người đi nẻo đường dương gian của
người". Không dính dấp với nhau, đó là các âm hồn sắp chuyển kiếp luân hồi, húp
xong cháo lú mê mê tỉnh tỉnh chen chúc đi trên các ngả đường dành sẵn cho mình,
người bận y phục quan tước, kẻ vác dụng cụ người mang nghiên bút, kẻ mặc da thú,
kẻ đội đầu thú có sừng, kẻ điên điên khùng khùng, mỗi người mỗi vẻ biểu lộ rõ
bản năng nao nức lên dương thế.
Minh Vương: Họ đều mất lý trí giống như cầm dao mà chẳng biết phen này đi, người
không chết thì ắt ta sẽ chết, lại còn hí hửng ra chiều đắc ý. Cảnh dương gian
cũng giống hệt cảnh này, thế mới biết hố sâu bẫy người, lửa thiêu còn bốc cháy,
hiện tượng luân hồi chuyển kiếp sinh sôi nẩy nở thấy cũng chẳng khác gì cảnh đó.
Dương Sinh: Họ mê mê đắm đắm đi trên cầu Ngọc, Đá, Gỗ, Tre nhắm đài chuyển kiếp
luân hồi mà lao vào, có kẻ rớt xuống mất tiêu chẳng thấy bóng tăm, chẳng hiểu
những kẻ đó làm cách nào để có thể chuyển kiếp đầu thai?
Minh Vương: Người đời cần phải hiểu thật rõ sự việc này, tôi sẽ giảng giải rành
rẽ dưới đây: Vạn vật chuyển sinh hẳn là do hai khí âm dương giao hợp kết cấu mà
thành. Đài chuyển kiếp luân hồi cũng giống như cửa ngõ âm dương của người đời,
nam nữ lúc động tình dục, tâm thần ắt hôn mê, tinh huyết dâng tràn giống như
sông Đỏ, dưới đài Chuyển Kiếp Luân Hồi lớp lớp sóng dâng trào, nước cuốn qua đẩy
đưa bánh xe chuyển kiếp, giống như cái guồng nước quay theo nước chảy sinh ra
sức hút. Những âm hồn mê mê tỉnh tỉnh này sẽ tuỳ nhân duyên của mỗi kẻ mà bị
cuốn hút vào trong bánh xe chuyển kiếp luân hồi. Giống như cơ thể của người mẹ
trên đời do tinh huyết giao hợp mà cấu tạo thành bào thai, tính linh đã nhập vào
cơ thể thai nhi, mười tháng mang thai, một sớm tới giờ, ắt linh thể này sẽ theo
đài chuyển kiếp chào đời. Kêu một tiếng từ Tử Hà Xa (bánh xe sông Tía) nhào ra,
máu nước cùng tuôn. Khóc một tiếng, hoảng kinh tỉnh thức nhìn lại đã tới trần
gian. Ngoài ra còn bốn loại sinh vật là: thai (trâu bò) noãn (gà vịt) thấp (cá
tôm) hoá (côn trùng) tuỳ thuộc mà sinh sản, tuỳ theo khoảng thời gian dài ngắn
khác nhau mà nuôi dưỡng bào thai nơi đài chuyển kiếp luân hồi. Người đời lúc
hoài thai vì hà xa (xe sông) chuyển động cho nên thường ói mửa. Đó là lúc bào
thai choáng váng, giống như cảnh ngồi xe chóng mặt, nôn nao.
Dương Sinh: À thì ra là vậy, Minh Vương nếu như không giảng rõ người đời hiện
nay chẳng hiểu.
Minh vương: Đài Chuyển Luân giống hình bát quái trong có một còng tròn là hình
thái cực, vốn gọi là vô cực, vô cực nhất động sinh thái cực, thái cực sinh âm
dương, cho nên đài chuyển luân chuyển động tức nhiên sinh sôi nẩy nở không
ngừng, bên trong có sáu lỗ để chui ra nên gọi là sáu nẻo luân hồi. Lỗ thứ nhất:
đầu thai làm công hầu khanh tướng. Lỗ thứ hai: đầu thai làm sĩ nông công thương
(bao gồm cả loại nghèo khổ, cô quả). Lỗ thứ ba: đầu thai làm trâu bò v.v... Lỗ
thứ tư: đầu thai làm gà vịt . Lỗ thứ năm: đầu thia làm cá tôm v.v.. Lỗ thứ sáu:
đàu thai làm sâu bọ... Mỗi loài chiếu theo công tội riêng mình mà thành hình.
Tế Phật: Giống hệt như công xưởng ở thế gian, vì nguyên liệu hơn kém nên sản
phẩm cũng khác nhau. Như gỗ tốt có thể xây cất nhà cửa, gỗ xấu chỉ dùng để nấu
nước nấu cơm. Con người chuyển kiếp luân hồi cũng vậy, nếu kiếp trước lương
thiện, khi đầu thai cũng gặp được đường ra tốt. Bởi vậy các laọi nhu yếu phẩm
của chúng sanh cần phải sửa đổi cho tốt hơn mới có thể tránh khỏi đầu thai làm
kẻ ác nhân.
Dương: Có thể nói riêng về sáu ngả luân hồi được chăng?
Tế Phật: Sáu ngã luân hồi gồm: ngả trời, ngả người, ngả a tu la, ngả địa ngục,
ngả quỉ đói, ngả súc sinh; đó là căn cứ vào mỗi loài mỗi bậc mà phân loại. Ngả
trời tức ngả thiên đường nơi Tiên Phật Thánh Thần ở thuộc hệ thống ngả trời, sau
khi các vị đó đã chứng quả thành đạo, chẳng cần húp cháo lú, không phải qua đài
chuyển kiếp luân hồi mà bay thẳng lên thiên đường. Điểm này mong chúng sinh tỉnh
ngộ để thoát lý sáu nẻo luân hồi. Kẻ có nguyên lực hay túc duyên, luôn ôm ấp
lòng từ bi, thấy chúng sinh chưa được độ sinh lòng trắc ẩn, nên thường chuyển
kiếp đầu thai tu chân học đạo, quyết chí dạy dỗ để khai sáng dẫn đường cho chúng
sanh, như các vị giáo chủ, sư tổ của các tôn giáo, hẳn là phải có căn cốt Tiên
Phật, do đó nói tiên Phật không rời chúng sanh. Từ xưa tới nay Tiên Phật phát
nguyện giáng thế cứu độ chúng sinh rất nhiều. Cho nên ở tại cảnh giới "bất sinh
bất diệt". Tiên Phật thường giáng trần gian, địa ngục do đó "luân hồi" đổi là
"lai hồi" để xem xét, chớ không chỉ đầu thai chuyển kiếp mới được gọi là "luân
hồi". Đúng ra có tới ba ngàn đại thế giới, đường qua lại tại sao chỉ chia làm
sáu ngả. Cho nên phải nói "vạn nẻo luân hồi" mới phải. Tính linh thông cùng nhau
chứ không ở riêng một cảnh giới nào, như cùng một gốc toả ra muôn nẻo khác nhau,
muôn nẻo khác nhau lại thâu về một gốc, chúng sinh nên hiểu điều đó. Dương Sinh
những điều mắt thấy bữa nay mới đúng là sáu nẻo luân hồi.
Minh Vương: Đại khái tình hình chuyển kiếp ở Điện Thứ Mười đã tiết lộ trong sách
Địa Ngục Du Ký. Hy vọng người đời gắng liễu ngộ cùng thể nghiệm. Đầu thai chuyển
kiếp tuy do âm phủ phán quyết nhưng kỳ thực là con đường thế nhân tự tìm tới,
nếu như không mau tu tâm dưỡng tính, một sớm đánh mất thân mình, hẳn là muôn
kiếp khó tìm lại được. Kính cẩn đưa tiễn Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh trở lại
Hiền Đường cùng chúc gặp nhiều may mắn trong việc hoàn thành cuốn sách để sớm
cứu độ hết thảy chúng sinh.
Dương Sinh: Cảm kích lời vàng của Minh Vương đã phá nỗi mê chấp ngàn đời, thế
nhân quả là được ơn phước. Hẹn gặp lại. Con đã lên đài sen, kính mời ân sư trở
lại Hiền Đường.
Tế Phật: Toàn bộ Điện Thứ Mười địa ngục tới đây kể như đã dạo thăm xong. Trọng
trách nặng nề này đã nhẹ bớt được phân nửa, Dương Sinh cũng đã quá cực nhọc, rằm
tháng tám mùa thu năm nay thiên ký sự này in thành sách, tinh thần Tam Tào (
thần, nhân quỉ) hẳn là đều vui mừng, chắc chắn bút mực không thể nào tả nổi .
Bởi vậy chúng sanh trong thiên hạ nên in tặng sách này thật nhiều để phổ biến
chân lý, đề cao chính pháp, đó cũng là tâm nguyện của ta. Qua mười điện địa
ngục, đã tới lúc bình mình ló dạng, mong chúng sinh có thể ngộ được cái tâm lý
trong sạch, dứt bỏ được cái tâm lý chật hẹp của riêng mình, mở rộng con tim từ
bi hân hoan tràn ngập đất, ngả thiên đường cũng ở ngay trước mắt... Đã tới Thánh
Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
...............................................
HỒI NĂM MƯƠI CHÍN
DẠO KHU BÌNH DÂN Ở ÂM PHỦ
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 9 tháng 6 năm Mậu Ngọ (1978)
Thơ:
Nhân gian bách nghiệp cạnh phân tranh
Địa phủ bình dân tình dạ doanh
Đại hoạn khu thân nan khán phá
Âm hồn đáo thử động u tình.
Dịch:
Bách nghiệp người đời mãi cạnh tranh
Bình dân âm phủ tối kinh doanh
Cái thân đại hoạ không lo lắng
Hồn tới âm ti nặng chĩu tình.
Tế Phật: Thế gian trăm nghề cạnh tranh nhau cách dị thường, âm phủ dưới trời sao
đêm ảm đạm, khắp nơi cũng hành nghề sầm uất. Lão tử nói: "Ngô sở dĩ hữu đại
hoạn, vị ngô hữu thần; cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?" (Sỡ dĩ ta có nạn lớn,
vì ta có thân, tới khi ta không còn thân, ta đâu có nạn). Cái thân xác giả tạm
này dĩ nhiên bỏ thì thương vương thì tội, do đó người đời tới âm phủ rồi mà vẫn
còn động lòng trắc ẩn nghĩ có kỳ lạ không? Bữa nay ta dẫn Dương Sinh đi thăm khu
Bình Dân để được tỏ tường, Dương Sinh mau lên đài sen.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, con đã sửa soạn xong, mời ân sư lên đường...
Tế Phật: Đã tới, Dương Sinh xuống đài sen.
Dương Sinh: Thành âm phủ này náo nhiệt lạ thường, người ra kẻ vào nhiều vô kể,
kẻ nào kẻ nấy vẻ mặt hớn hở vui tươi, không một âm binh áp giải, nên rất tự do,
trên vách thành thấy đề ba chữ "Khu Bình Dân", chẳng rõ phía trong đó tình hình
ra sao?
Tế Phật: Khu Bình Dân tức là khu "Bình Hồn" (hồn yên). Phàm người trần sau khi
qua đời, những vong hồn công và tội ngang nhau, kẻ tại thế không kết ấn oán với
ai ắt khỏi phải đầu thai, vào thẳng khu Bình Dân ở âm phủ. Sở dĩ gọi là khu Bình
Dân tức là được hành nghề tự do, tại thế nếu làm nghề nông hay buôn bán, lúc tơi
đây cũng có thể hành nghề cũ, lấy thương, nông làm chính để tự lực cánh sinh.
Khác hẳn xã hội khoa học tiến bố ngày nay trên dương gian không cần phải làm
lụng vất vả mà vẫn sống sung sương, còn những kẻ tới đây dĩ nhiên phải nhờ vào
đôi tay làm việc cực nhọc mới mong duy trì sự sống. Chúng ta hãy vào trong xem
xét tình hình.
Tướng Quân Giữ Cửa: Thần Thánh từ phương nào tới khu này đây?
Tế Phật: Ta là Phật Sống Tế Công, phụng chỉ hướng dẫn người phàm tham quan quí
khu để viết sách khuyên đời.
Tướng Quân: Tình hình của bản khu làm sao có thể tiết lộ được?
Tế Phật: Ngọc Chỉ đây, mau vào trong thông báo.
Tướng Quân: Ngu chức phạm thượng, xin Phật Sống tha tội, tôi phải vào trong
thông báo ngay mới được.
Khu Trưởng: Xin Tế Phật tha thứ, Dương Sinh che chở vì Tướng Quân không biết hai
vị . Bữa nay hai vị quá bộ tới thăm khu Bình Dân, xin tha tội về việc không
nghinh đón.
Tế Phật: Cũng tại không thông báo trước, xin chớ bận tâm.
Khu Trưởng: Kính mời hai vị vào trong tham quan.
Dương Sinh: Cảm tạ sự tiếp đãi của Khu Trưởng, Khu Trưởng ở đây có giống Khu
Trưởng ở dương gian không?
Tế Phật: Này Dương Sinh con chớ nhiều lời, sở dĩ kêu Trưởng chỉ vì tôn xưng, còn
đích thực là Chủ Quản khu Bình Hồn.
Dương Sinh: Các kiểu kiến trúc phòng óc trong khu này toàn bằng gỗ, không thấy
có lầu cao nhà lớn như ở dương gian.
Khu Trưởng: Khu Bình Dân là nơi âm hồn cư ngụ, tính của gỗ và đất lại có liên
quan với nhau, cho nên âm hồn ở nhà gỗ rất thích hợp.
Dương Sinh: Có quán ăn, quán tạp hoá, người tụ họp đông đảo chẳng khác gì dương
gian, cũng có một số người để tóc dài, bận đồ xưa, chẳng rõ lý do tại sao?
Khu Trưởng: Trong khu này có một số âm hồn thuộc triều đại khác, vì vậy ai nấy
giữ cách sinh hoạt riêng của mình như lúc còn sống, cho nên nhìn thấy tự nhiên
có chút khác nhau, để tôi đưa hai vị ra đồng xem cách thức canh tác ngoài ruộng.
Tế Phật: Âm dương đôi ngả, nhưng tâm lý giống nhau, lúc sống không lo tu chính
đạo cho nên sau khi chết không quên được nghề nghiệp kiếp trước. Do dó nói "chết
mang nghề nghiệp theo", như cách sinh hoạt ở đây, vong hồn không bỏ nghề nghiệp
trước họ chỉ thích làm nghề cũ.
Dương Sinh: Ruộng đất ngoài đồng, khắp nơi đều có người canh tác, tất cả chỉ nhờ
vào đôi tay làm việc khó nhọc cần cù, không hề có một con trâu hay cái cày máy
giúp sức.
Khu Trưởng: Sau khi chết chẳng thể so sánh với lúc còn sống thì làm sao hưởng
phúc, cho nên chỉ nhờ cậy ở năng lực tự nhiên làm việc để sống.
Dương Sinh: Tình hình sinh họt của những người này ra sao?
Khu Trương: Sinh hoạt giống như người ở thế gian, ngày ba bữa ăn uống, làm lụng
nghỉ ngơi có giờ giấc, vì hồn phách của họ còn mê loạn, thất tình lục dục, do đó
cũng có hôn nhân qua lại, bình thường làm lụng vất vả khổ cực sống lâu thành
thói quen.
Dương Sinh: Có phải họ sẽ vĩnh viễn làm việc ở đây?
Khu Trưởng: Chẳng phải, họ cũng có mệnh thọ quản chế, hết hạn được trở về nghỉ
ngơi để chuyển kiếp đầu thai.
Dương Sinh: Chẳng rõ dương gian đốt giấy vàng, giấy tiền, chi phiếu cùng lễ vật
cúng bái ở đây họ có được hưởng không?
Khu Trưởng: Vấn đề này là một nghi vấn mà thế gian cứ tranh luận hoài, tôi xin
đặc biệt trình bày như sau: Tổ tiên người đời sau khi tạ thế, có kẻ đốt giấy
vàng, giấy bạc, giấy tiền, chi phiếu v.v... để cho người chết sử dụng, nhưng
những người này lại đều là những "thân đợi tội" ở âm phủ, bởi vậy họ không được
hưởng tiền bạc đó! Tục ngữ nói: "vận lai hoàng thổ biến thành kim" (Vận tới đất
biến thành vàng) lấy dương gian hiện tại mà luận thì ở đó thì tấc đất tấc vàng,
đất có thể biến thành vàng là sự thật. Còn như thể tro than giấy vàng, giấy bạc,
giấy tiền v.v ... cúng cho người chết cuối cùng đều về đất, cho nên đất có thể
sinh ra vàng là gốc ở cái lý ngũ hành tương sanh tương khắc. Giấy qua lửa thành
tro nhưng vàng thếp thì lại bất diệt, tro hoá thành đất, hơi là khí ngũ hành. Âm
hồn nhận được giấy vàng của con cháu đời sau là do ngũ tạng nhận được khí đó
giống như người hấp thụ phần dinh dưỡng mới có thể tiếp tục sinh trưởng.
Dương Sinh: Cớ sao vẫn nghe nói trong lúc nằm mơ con cháu thường thấy ông bà cha
mẹ hiện về xin tiền để tiêu?
Khu Trưởng: Thức ăn của các vong linh là khí cho nên đồ cúng chưa từng bị vong
hồn nuốt mắt là bởi vong hồn chỉ hít khí vị mà thôi. Vong hồn vì phải làm việc
để sống hoặc sau khi bị hình phạt, nguyên khí không đủ, cho nên có kẻ trở lại
dương gian hướng người thân xin ăn, đòi tiền, đó là cầu yểm trợ nguyên khí. Đốt
giấy tiền, vàng bạc chẳng cần nhiều lắm, nhận được chút lòng hiếu thảo của con
gái là đủ rồi, tại dương thế chính mình sống giàu sang, tổ tiên cũng không có
cách gì nhận được cái phần "phúc khí", cho nên việc cúng bái là cốt để yên lòng
người chết, để đạo lý tồn tại. Như "phúc khí", "môi khí" (khí mốc) chẳng phải là
loại khí sao? Bởi vậy đốt giấy để hoả khí hoá âm khí của vong hồn, để trợ nguyên
khí rất là điều dúng, người đời chớ có khinh thị. Tuy nhiên chẳng cần đốt quá
nhiều lỡ vong hồn không có may mắn để nhận sẽ lãng phí. Do đó đốt giấy tiền,
vong hồn sẽ chỉ hấp thụ được khí, chớ không dùng để mua bán được. Ở âm phủ có
loại tiền riêng lưu hành, tuyệt đối không nhờ cậy dương gian cung cấp.
Tế Phật: Giấy tiền chỉ hữu dụng đối với những vong hồn bình thường, còn nếu là
kẻ có công đại thiện ở cõi thế hoặc kẻ tu đạo sau khi chết họ "qui chân", nguyên
linh đạo khí của họ sung thiên, không dùng "tục tiền, tục khí" để bổ sung, điểm
này mong người đời hiểu rõ.
Dương Sinh: Ân sư nói rất chí lý, tuy nhiên nhừng xưởng in giấy bạc âm phủ ở
dương gian lại bất nhất, nên phẩm chết chế tạo sai biệt quá lớn, mang tới ngân
hàng nhà nước ở âm phủ không hiểu làm sao sử dụng.
Tế Phật: Ha ha, công xưởng chế tạo tiền âm phủ ở dương gian quá nhiều, nên phần
đông chỉ nhằm kiếm lời thành bớt công, giảm vật liệu, nếu như không chế tạo thực
thà đó là tự tác nghiệp, ta đã từng thấy âm phủ hoàn trả lại những món đồ không
đủ tiêu chuẩn rất nhiều.
Dương Sinh: Âm hồn ở khu Bình Dân với vong hồn phạm tội có chi bất đồng?
Khu Trưởng: Vong hồn ở khu Bình Dân được tự do không quá bị trói buộc, muốn tới
dương gian có thể được phê chuẩn, khoản bảy tháng thay phiên nhau ra ngoài. Nếu
là tội hồn thì trái ngược hẳn, lúc thường chịu hình phạt, trừ phi tự mình tế sao
hoặc tình trạng đặc biệt còn không khó được ra ngoài, ngoại trừ tháng bảy, kẻ có
tội nhẹ có thể ra ngoài đi đây đi đó.
Dương Sinh: A thì ra là vậy.
Tế Phật: Khuyên người đời lo tu thân học đạo giác ngộ chân lý thấy được ảo thân
là giả, để sau khi chết không còn ảo tưởng là mình vẫn còn sống ở thế gian, đến
khu Binh Dân lại còn muốn làm việc nặng nhọc vất vả, rất khó chữa trị nổi. Không
vượt được đường tu sinh ắt sinh như tử, tử như sinh, sinh sinh tử tử, lăn lóc
mãi trong vòng luân hồi, vĩnh viễn không có ngày ngóc đầu lên nổi . Bữa nay thời
giờ đã hết, chuẩn bị trở lại Hiền Đường.
Khu Trưởng: Lệnh các quan viên hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Dương Sinh: Cảm tạ sự chỉ dẫn của Khu Trưởng, xin cáo từ.
Tế Phật: Đã tới Thánh hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI SAU MƯƠI
DẠO SỞ TU THIỆN TY THƯỞNG THIỆN VÀ TY PHẠT ÁC
Phật Sống Tế Công
giáng ngày 19 tháng 6 năm Mậu Ngọ (1978)
Thơ:
Hồn qui tụ thiện tái tu công
Luyện tính ma tâm khổ dụng công
Đạo pháp văn thi thâm cứu học
Nhân gian cứu thế hiển linh thông.
Dịch:
Trường học hồn ơi gắng trả bài
Tu tâm sửa tánh chẳng hề sai
Thi văn đạo pháp lo tìm hiểu
Cứu độ trần gian hiện thánh thai.
Tế Phật: Bữa nay dạo địa ngục đã định tới Sở Tụ Thiện cùng Ty Thưởng Thiện và Ty
Phạt Ác. Sách Địa Ngục Du Ký viết tới đây đã gần kết thúc, ta rất vui mừng thấy
nhiều kẻ phát thiện tâm ấn tống rất là nhiệt thành, quả lòng từ bi với con người
là một, có như vậy mới không phụ công lao khó nhọc suốt hai năm qua bôn ba âm
phủ của thần và người, chỉ mong sao chúng sanh trong thiên hạ nhận ra chân lý
quay về nẻo đạo, theo đường lương thiện. Địa Ngục Du Ký là một cuốn sách mà chơn
lý phù hợp với mọi tôn giáo, phàm kẻ chịu khó độc sẽ có lợi ích cho tâm thần vô
kể, ta ra công hô hào là mong chúng sanh bỏ ác theo thiện, làm sự lành, tránh sự
dữu, được người gọi là kẻ tốt, một phen hết lời kêu gọi tu tâm, mong người có
lòng trong thiên hạ cùng lên tiếng gọi đàn. Dương Sinh sửa soạn lên đài sen.
Dương Sinh: Con đã sẵn sàng, mời ân sư lên đường...
Tế Phật: Đã tới, Dương Sinh xuống đài sen.
Dương Sinh: Sở Tụ Thiện đã ở ngay trước mắt, phía ngoài rất sạch sẽ, khuôn viên
trồng các loại cây cảnh va `hoa, khác hẳn cảnh nhà lao tối tăm ở âm phủ.
Tế Phật: Sở Tụ Thiện cũng là nhà trường ở chốn âm phủ, chuyên môn chỉ dạy các
thần chức và nhân viên tới tu luyện.
Dương Sinh: Cửa sổ đã mở, các quan viên đã xếp hàng nghinh đón mình.
Tế Phật: Sở Trưởng cùng các quan viên trong sở đã tới, Dương Sinh mau tới trước
làm lễ ra mắt.
Dương Sinh: Xin ra mắt Sở Trưởng cùng chư vị Tiên Quan.
Sở Trưởng: Miễn lễ, hoàn nghênh Dương Thiện Sinh cùng Tế Phật tới thăm, đợi đã
lâu! Mời hai vị theo tôi vào trong để tiện tham quan.
Tế Phật: Rất cám ơn. Bữa nay tới đây quấy rối, xin Sở Trưởng ban ân chỉ giáo,
cùng giới thiệu tình hình của quí sở cho Dương Sinh đươc, rõ.
Sở Trưởng: Lẽ đương nhiên bản sở có tên là Tụ Thiện Sở còn gọi là Sở Hợp thiện,
phàm người đời lúc sống công đức lớn lao nhưng chưa đạt tới tiêu chuẩn "thăng
thiên giới chứng quả" đều được dẫn vào Sở Tụ Thiện tu luyện để chuẩn bị "thượng
thăng thiên giới" hoặc trở lại trần gian tiếp nhận chức Thần cứu đời giúp người.
Dương Sinh: Người ở phía trước có phải là Trang Kiến An, một môn sinh cũ của bản
đường không?
Tế Phật: Phải rồi, bữa nay được tương hội tại đây phải nói là có chút nhân
duyên.
Dương Sinh: trang tiên sinh nhìn thấy tôi mắt muốn ứa lệ...
Sở Trưởng: Trang Thiện Hồn, người chớ bi thương, bữa nay đặc biệt sấp xếp cho
các anh là đồng đạo với nhau được tương hội tại đây, có thể kể lại tình cảnh sau
những ngày từ giã cõi trần.
Trang Thiện Hồn: Bữa nay được hội kiến Dương thiện Sinh tại đây, trong, trong
lòng đà cảm động nói không được, nước mắt bi thương lại còn tuôn trào. Lúc sống
nhập môn Thánh Hiền Đường, đã nhận được sự chiếu cố của Quan Ân Chủ cùng chư vị
đồng tu do đó mà tôi hăng hái ra sức công quả, hằng ngày tới toà soạn tạp chí
Thánh Hiền trả lời thư tín, lòng những tưởng gắng công quả tương lai có thể tiêu
dao cõi thiên đường song vì quá si mê nên còn lưu lại chút tơ duyên tình ái nơi
cõi thế cho nên sau khi rời trần gian tuy có Phúc Thần dẫn đường cùng Ân Chủ bảo
hộ, song vì gây lỗi quá nhiều, công tội ngang nhau, tư cách không đủ để lên
thiên đường. Lúc tại thế, Ân Chủ kỳ vọng ở tôi quá nhiều, luôn dạy dỗ khuyến
khích, song vì tôi trí tuệ nông cạn nên chưa thể nghiệm cùng giác ngộ nổi Thánh
ý, không làm chủ được thân, tâm nguyện chưa thành nên thân chết trước... May mắn
nhờ lúc sanh tiền một lòng chân thành, Ân Chủ mới dẫn tôi đi tham quan tinh
trạng xử phạt tại các ngục, sau đó trở về Sở Tụ Thiện tu luyện. Lúc cử hành đám
tang, tôi được các vị đồng đạo của hiền Đường thắp nhang, đi đưa, lòng tôi tràn
đầy cảm kích nói không được, xin Dương Sinh cho tôi gởi lời cám ơn tới cá bạn
đạo. Tôi ở đây hàng ngày học văn, học đạo luôn luôn bị khảo hạch. Chúng tôi phải
trao đổi, vun bồi lòng từ bi như thấy của không tham, thấy sắc không mê... môn
nào cũng phải khá vượt mức. Những đề thi đều do Tiên Phật hoá phép, như muốn
chúng tôi đi tới nơi nào, hốt nhiên bên đường hiện đầy vàng, có gái đẹp tới dẫn
dụ, nếu như tâm thần không định sẽ bị thi rớt, liền coi như không hợp cách phải
tu luyện lại. Bình thường có Tiên Phật Thánh tới đây giảng dạy đạo pháp, tuy
không bị xử phạt nhưng hương vị của sự học bài và trả bài cũng chẳng dễ dàng hấp
thụ.
Sở Trưởng: Sở Tụ Thiện chuyên môn huấn luyện những người sẽ đạm nhận chức Thần
hoặc để thay thế những vị Thần linh sức đạo yếu kém. Do đó mà học viên luôn bị
khảo nghiệm, tới bao giờ đạt được cốt cách thần Thánh mới cho tốt nghiệp. Sau
khi tốt nghiệp, có kẻ vì nhờ gặp duyên cho nên được Thần Tiên độ về thiên đường
tu luyện thêm, có kẻ trở lại dương gian đảm nhiệm chức thần.
Trang Thiện Hồn: Xin nhờ Dương tiên sinh nói lại với các con tôi là phải chăm lo
tu thân học đạo. Con tôi Văn Hiền tính trực, làm không nổi việc lớn thì thật
đáng buồn! Hy vọng bạn đạo của Thánh Hiền Đường thấy rõ được điều đó mà cố gắng
giúp đỡ. Nhớ thuở trước tôi từng nói "ước gì mình được theo Dương thiện Sinh
xuống dạo âm phủ" chẳng ngờ lời nói đó giờ đây thành lời sấm, ước mong đó giờ
đây thành sự thực. nay tôi muốn làm công quả thật nhiều cho Thánh hiền Đường
nhưng nhục thể đã mất nên chẳng thể có sức.
Tế Phật: Sở Tụ Thiện tình hình đại khái như vậy, chúng tôi còn phải tới tham
quan hai ty Thưởng Thiện và Phạt Ác. Xin cáo từ.
Dương Sinh: Xin Trang tiên sinh giữ gìn cẩn thận, việc ở Thánh hiền Đường chớ có
bận tâm.
Trang thiện Hồn: Cảm tạ Dương Thiện Sinh.
Sở Trưởng: Lệnh cho các quan viên hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Tế Phật: Dương Sinh lên đài sen, chúng ta tới nơi khác tham quan.
Dương Sinh: Con đã lên đài sen, mời ân sư khởi hành...
Tế Phật: Đã tới ty Thưởng thiện.
Dương Sinh: Quả không sai, phía trước có tấm bảng đề ba chữ "Thưởng Thiện Ty"
Quan Coi Ty: Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh tới thăm.
Tế Phật: Hôm nay thầy trò chúng tôi tới quí ty tham quan, xin giới thiệu sơ lược
tình hình.
Dương Sinh: Các vong hồn tới đây đều do Phúc thần dẫn đường, không cần khí giới
áp giải hoặc roi đánh đập, coi vẻ họ rất tự do.
Quan Coi Ty: Phàm người đời sau khi tạ thế, kẻ công nhiều hơn tội, một số tới
đây trước để chờ xử lý. Những vong hồn tới bản điện đều tự do tự tại, có thể
uống trà nhàn đàm suốt ngày, hoặc đnáh cờ tiêu khiển. Ty Thưởng Thiện chỉ là nơi
các vong hồn lương thiện tạm thời nghỉ ngơi mà thôi. Những người tới đây, sau
khi đo8ị một thời gian sẽ được dời sang sở Tụ Thiện hoặc gởi tới các điện sưu
tra quyết định.
Dương Sinh: À ra nguyên lai là như vậy.
Tế Phật: Vì thời giờ có hạn, chúng tôi phải tới Ty Phạt Ác tham quan, xin cáo
từ.
Quan Coi ty: Lệnh cho các quan viên hàng ngũ chỉnh tề đưa tiễn.
Tế Phật: Dương Sinh lên đài sen, dời đây không xa sẽ tới ty phạt Ác... Đã tới.
Dương Sinh: Đây với ty Thưởng thiện hoàn toàn khác nhau, tấm biển trên cửa đề ba
chữ "Ty Phạt Ác" vong hồn tới đây đều bị âm binh áp giải, giống hệt như bị bắt
bớ.
Quan Coi Ty: hoan nghênh hai vị ffạo trưởng. Bữa nay quí vị thân hành tới tham
quan, bản ty cảm thấy vô cùng vinh dự, quí vị viết sách khuyên đời, công đức
thật là vô lường.
Tế Phật: Quan Ty quá khen, thầy trò chúng tôi tới đây, vì thờ giờ eo hẹp, kính
mong Quan Ty giới thiệu gấp tình hình của quí Ty.
Quan Coi Ty: Được lắm, bản ty gọi là Ty Phạt Ác. Phàm những kẻ trên đời gian
manh hại người, phản bội lẽ Trời, thần ba cõi tuần du ngày đêm theo dõi báo cáo
về âm phủ. Nếu tội quá nặng bản ty ắt triệu nguyên thần (thần khí nguyên linh)
của y tới âm phủ trừng phạt. kẻ ở thế gian mà thần khí bị sửa trị ở âm phủ thì
chỉ cảm thấy mơ mơ hồ hồ, thống khổ vạn phần. Lúc này người phàm mắc bịnh có cảm
giác đàu chóng váng đau nhức, toàn thân bần thần khó chịu, chỉ biết là mình có
bịnh, thân tâm khó chịu buồn bực, không rõ đó là bịnh ma hãm thân, hồn phách đã
tới âm phủ chịu hình phạt. Lúc khỏi bịnh là phút hồn phách được thả về dương
gian tinh thần cảm thấy nhẹ nhàng khoan khoái. Những kẻ đang bị áp giải đi ngang
qua kia cũng là hồn phách của người trần, đó là loại công tác thứ nhất của bản
ty, còn loại công tác thứ hai là trừng phạt những phàm nhân sau khi chết. Cũng
có kẻ vì tội ác quá nặng, phải giao cho bản ty sửa trị trước, đợi cá điện sưu
tra ấn chứng của tội hồn xong mới giải giao tới để họ liệu tiếp, cho nên bản ty
chỉ là chỗ tạm thời câu lưu mà thôi.
Dương Sinh: thì ra nguyên nhân là như vậy, cảm tạ sự chỉ giáo của quí ty.
Tế Phật: Thời giờ đã trễ, chúng ta sửa soạn trở lại hiền Đường.
Quan Coi Ty: Lệnh cho các quan viên hàng ngũ chĩnh tề đưa tiễn.
Tế Phật: Dương Sinh lên đài sen.
Dương Sinh: Con đã sữa soạn xong, mời ân sư trở lại hiền Đường.
Tế Phật: Thánh hiền Đường đã tới, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI SAU MƯƠI MỐT
DẠO AO MÁU NHƠ CÙNG ĐIỆN ĐÔNG NHẠC
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 25 tháng 6 năm Mậu Ngọ (1978)
Thơ:
Du minh lịch tận vạn trùng sơn
Huyết hãn như lưu bất yếm phiền
Thiện ác thuỳ ngôn vô báo ứng
Thiên đường địa ngục hiện ban ban.
Dịch:
Dạo xem âm phủ vượt ngàn sông
Khổ cực gian lao chẳng nản lòng
Thiện ác ai tin không báo ứng
Thiên đường địa ngục hiện song song.
Tế Phật: Trải qua khắp ngả đường âm phủ, những gì trông thấy đều là các vong hồn
si mê! Lúc chưa sinh ta không rõ ai là ta? Sau khi sinh ta không rõ ta là ai?
Hai mắt mông lung lại không biết ai là ta? Chúng sanh mê tới mê lui, giống như
đứa học trò lười biếng, đeo túi cơm theo chân người tới trường, chỉ biết ăn cơm
đùa rỡn, tới kỳ thi một hỏi ba không biết, có thể nói uổng phí cả công lao của
cha mẹ đã nuôi nấng đứa con ngu muội si mê. Ta gởi lời ở đây nói với chúng sanh
dưới gầm trời rằng: đã sinh làm con người thì phải đội trời đạp đất làm điều tốt
lành ơn nghĩa, không được quỉ quỉ ma ma chuyên làm những việc xấu xa bất nhân ác
đức, để tránh lúc sống quen đi đường tối ám, sau khi chết thành quỉ vô luân, mãi
mãi kéo dài thì thật là tham lam. Bữa nay chuẩn bị dạo âm ti, Dương Sinh lên đài
sen.
Dương Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đã tới, Dương Sinh xuống đài sen.
Dương Sinh: Thưa thầy bữa nay tới đây, tai sao phía trước lại thấy có một cái
ao, nhìn từ xa giống như có bóng người chìm nổi, hụp lặn ở trong, cùng tiếng kêu
cứu mạng vọng cả tới đây. Ôi! Lại còn có cả mùi tanh tưởi bay tới nữa sao?
Tế Phật: Phía trước là ao Máu Nhơ (Huyết Ô Trì), bữa nay ta dẫn con tới đây
thăm, hãy lên tinh thần. Mau tiến tới trước để tiện coi xét kỹ càng xem ra sao.
Dương Sinh: Trên đường âm binh áp giải rất nhiều người nhắm cái ao đi tới.
Tế Phật: Những tội hồn đó đều bị đem tới ao Máu Nhơ.
Dương Sinh: Mùi tanh hôi càng nồng nặc, tiếng kêu cứu mạng càng vang dội, nguyên
nhân nước trong ao giống hệt máu nhơ tanh tưởi vô cùng.
Tướng Quân Giữ Ao: Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh thân hành tới thăm,
chúng tôi đã được giấy thông báo cho nên biết trước hai vị bữa nay sẽ tới. Xin
mời vô trong tham quan.
Dương Sinh: Bởi vì ở đây nhìn thấy rất rõ ràng, tôi thiết tưởng chẳng cần phải
tới sát bờ ao, chỉ mong Tướng Quân nói rõ về tình cảnh các tội hồn chịu hình
phạt ở ao Máu Nhơ.
Tướng Quân: Được được . Ao này gọi là ao Máu Nhơ, vị tri' ở phía dưới cầu Nại
Hà, tội hồn khi đi qua cầu đó té xuống hố rắn độc nên bị rắn độc nhai nuốt, cắn
bị thương, máu tươi tuôn thành sông cuốn chảy vào ao này mà thành ao Máu Nhơ.
Những kẻ bị nhận chìm dưới ao, lúc tại thế đều phạm vào các tội nhơ bẩn.
Dương Sinh: Xin Tướng Quân giảng giải rõ ràng hơn nữa.
Tướng Quân: Thần Thánh vốn không thể giả dối khinh nhờn nhơ bẩn, vậy mà vẫn
thường có những kẻ khóc lóc chửi rủa thần minh, hoặc dùng những tiếng tục tỉu dơ
dáy mắng mỏ người trên, cùng vu khống giá hoạ cho kẻ khác đều thuộc loại tim
ruột nhơ bẩn. Có kẻ bày trò dâm giữ ban ngày ban mặt, giao hợp giữa trời chẳng
sợ tam quang (mặt trời mặt trăng tinh tú), chẳng hổ người nhìn, chôn vùi liêm
sĩ, nhơ bẩn cùng cực. Có kẻ chuyên môn bán sắc lấy tiền, mỗi lời nói ra đều là
lời tục tỉu. Có kẻ thâm dâm quá độ, tới động thăm hoa không ngớt, ô nhiêm cả thể
xác lãnh tinh hồn, hoặc miệng thích ăn đồ nhơ để tẩm bổ cơ thể hoặc ham bày trò
bổ dưỡng nhơ bẩn thuộc bọn tà môn, những kẻ ham thích làm thịt giết hại sinh
linh, làm ô uế miếu đường Thần Phật, kinh sách Thánh Hiền, sau khi chết đều phải
chịu cái khổ, bị nhận chìm dưới ao Máu Nhơ này.
Tế Phật: Tục truyền: Phàm phụ nữ bất hạnh chết vì sinh đẻ cũng bị quăng xuóng ao
Máu Nhơ này là lời ngoa truyền. Sinh đẻ nuôi dưỡng là lẽ thường của trời đất hoá
công, chẳng may thác đã là sự thảm, không lẽ còn đem quăng xuống ao máu bẩn! Cho
nên người đời như có thân quyến sinh đẻ mà bệnh thác, phải gắng làm nhiều việc
thiện hoặc tụng niệm kinh kệ, hoặc ấn tống kinh sách thánh hiền để đem công đức
này hồi hướng, ắt có thể giúp đỡ cái tâm của vong hồn bớt kinh hoàng sợ hãi. Vì
lúc sản phụ lâm bồn, tâm vô cùng hoang mang thống khổ. Nếu như bất hạnh thác đi,
nhất thời hồn phách bất an, thân nhân phải lo tu nhiều công đức, để cầu Thánh
Thần Tiên Phật hoá độ.
Tướng Quân: Tế Phật nói rất chí lý, mong người đời hiểu rõ.
Tế Phật: Vì còn cần đi nơi khác, tình hình ao Máu Nhơ đã rõ đại khái. Chúng tôi
xin cáo từ.
Dương Sinh: Cảm tạ sự hướng dẫn của Tướng Quân.
Tướng Quân: Không có chi, có điều gì thất lễ, xin tha thứ.
Tế Phật: Dương Sinh lên đài sen, chuẩn bị tới điện Đông Nhạc.
Dương Sinh: Thưa, con đã sẵn sàng, mính mời ân sư lên đường...
Tế Phật: Đã tới điện Đông Nhạc, Dương Sinh xuống đài sen.
Đông Nhạc Đại Đế: Nghinh tiếp Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh tới thăm, quí vị
phụng chỉ viết sách, bữa nay mới tới bản điện, thực chờ đợi quá lâu.
Tế Phật: Vì Đại Đế quyền uy vô thượng, bần tăng lại bắt đầu đi thăm từ Đệ Nhất
Điện, quí điện lại toạ lạc ở sau chót, đó chính là ý "hậu lai cư thượng" (Tới
sau mà ỏ cao trên hết). Kính mong Đại Đệ chớ bận tâm.
Đại Đế: Tế Phật chớ buồn lòng đã có công thân hành tới bản điện là ta vui mừng
rồi. Thánh hiền Đường ở Đài Trung phát huy đạo đức chân lý kể từ khi dựng Thánh
Đường tới nay đã trước tác Thái Thượng Vô Cực Hỗn Nguyên Chân Kinh, Ngọc Hoàng
Phổ Độ Thánh Khinh, Tu Đạo Chỉ Nam, Sơ Thuật Cổ Kim Thiện Ác Nhân Quả Báo Ứng,
Thánh Hiền Chân Lý... các kinh sách Thánh Hiền này đều ấn tống để quảng bá,
khuyên hoá bốn phương, nhân tâm thế đạo ảnh hưởng kẻ hướng thiện không biết bao
nhiêu mà kể, lòng ta đã sớm cảm tạ vạn phần. Bữa nay Dương Thiện Sinh lại theo
Tế Phật tới thăm bản điện, lẽ tất nhiên được tiếp đãi nồng hậu, mời hai vị vào
trong điện nghỉ ngơi rồi chúng ta cùng đàm luận.
Dương Sinh: Cảm tạ Đại Đế đã yêu mến giúp đỡ.
Đại Đế: Mời hai vị ngồi, lệnh Tướng Quân mau dâng trà.
Tướng Quân: Tuân lệnh... Đã dâng lên.
Tế Phật: Cảm tạ Đại Đế ân ban.
Dương Sinh: Trà ngọt trái ngon, mùi vị chẳng sai, có thể mang về dương gian một
ít chăng?
Đại Đế: Trái này chỉ ăn ở đây mới ngon thôi.
Tế Phật: Dương Sinh này, con chớ ham ăn, cây ăn trái trong vườn nhà con đã kết
quả sai chíu chít, chỉ cần chịu khổ chăm sóc, con sẽ đủ ăn.
Đại Đế: quả đạo mới là thứ trái thực dụng, nó có mang hình dáng quả nọ trái kia
đâu, nhưng ăn thì hoàn hảo, dùng thì được tất cả mà vẫn còn bị mục nát, trở
thành vật vô dụng.
Dương Sinh: Lời dạy của ân sư cùng Đại Đế con đã liễu ngộ, thật quá xấu hổ, xấu
hổ!
Tế Phật: Xin Đại Đế giới thiệu về chức vụ của các Ty thuộc quí điện, thưa có
tiện không?
Đại Đế: Đông Nhạc tức núi Thái Sơn là ngọn đầu tiên trong Ngũ Nhạc, trực thuộc
sự cai quản của các ty nơi Đệ Thập Điện ở âm phủ, có thể nói là đơn vị tư pháp
tối cao giống như toà Tối Cao Pháp Viện ở dương gian. bản ngục chỉ cai quản sửa
trị tất cả các hồn phách u uất tán loạn cùng việc thăng giáng quỉ thần bất kỳ ở
dương gian hay là âm phủ. Vì bản điện có thể tâu thẳng với Ngọc hoàng Thượng Đế
rồi ra lệnh thi hành nhiện vụ. Các bậc sơn thần, thổ thần, biên giới thần, thiên
thần, địa thần đều qui tu tại Đông Nhạc, phàm mười điện dữ kiện án lịnh có gì
nghi vấn không giai quyết được tức thì chuyển giao tới đây để bản điện lo liệu,
cho nên bản điện ở vào địa vị cao hơn mười điện, hơn nữa trên đỉnh Đông Nhạc lại
có U Minh Giáo Chủ, quản lý phổ độ để cho mọi việc được hoàn hảo. Tôi nắm quyền
cai quản, kiểm soát âm phủ không giống các ty chức khác.
Dương Sinh: Kẻ hạ sinh có một nghi vấn. Kính mong Đại Đế chỉ giáo. Quí điện đã
cai quản tất cả hu hồn tán quỉ, tại sao dương gian vẫn còn thấy người này kẻ kia
bị tà ma quấy phá, hoặc hồn quỉ xâm phạm, có thể nói là pháp luật ở âm phủ còn
có kẽ hở không?
Đại Đế: Lưới trời ***g lọng, thưa mà chẳng lọt, lưới đất dày đặc, thoát mà chẳng
được lâu. Điều Dương Sinh nói rất đúng, dương gian hiện có rất nhiều du hồn tán
quỉ. Âm luật tuy nghiêm nhưng không tuyệt đối xoá bỏ tâm từ bi, cho nên nói
"tình lý pháp kiêm cố" (Pháp luật nhìn bao quát cả tình lẫn lý). Không thiếu
những vong hồn lúc sống bị oan ức mà thác, âm ti cho phép báo oán nhưng tới khi
dương gian thường thường ý khí làm việc không phân đen trắng, thấy người là quấn
quít, nếu gặp người trần nguyên tính của thần hồn thịnh vượng hoặc đạo đức cao
thâm, ắt nó không dám bén bảng tới gần. Những du hồn tán quỉ nếu như không tôn
trong. pháp lệnh làm quấy ở trần gian một sớm bị phát hiện ắt bị thần thánh ở
dương gian hoặc đội tuần sát của bản điện bắt được sẽ đem về lkhép tội, lúc đó
hẳn nó hết đường chối cãi, công và tội được xét xử đúng theo luật đã ấn định. Vì
chư thần ở địa phủ muốn nỗi oán hận của chúng sinh tiêu tan cho nên mới phóng
thích quỉ hồn để báo oán, nếu như tội phạm ở dương gian sau khi được thả ra có
kẻ đã thay hình đổi dạng gia tăng sự tàn hại, ỷ thần cậy thế khinh rẽ đồng loại,
người đời bị hồn quỉ ám ốp thân tâm là bởi lý do trên.
Dương Sinh: Đại Đế nói rất đúng.
Tế Phật: Cảm tạ Đại Đế đã khai mở cho biết rõ, vì thời giờ đã trễ chúng tôi
chuẩn bị hồi đường.
Đại Đế: Hai vị gian nan khổ cực, nguyện chúc cho Dịa Ngục Du Ký sớm viết xong,
việc phổ biến giáo hoá chúng sanh cũng mong sớm thấy có kết quả. Lệnh cho các
quan viên hàng ngũ chĩnh tề đưa tiễn.
Dương Sinh: Cảm tạ Đại Đế cùng chư vị Tướng quân xin cúi lạy giã từ... Con đãlên
đài sen, kính mời ân sư trở lại Hiền Đường...
Tế Phật: Đã tới Thánh Hiền Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể
xác.
...............................................
HỒI SAU MƯƠI HAI
LẠY GẶP BỒ TÁT ĐỊA TẠNG VƯƠNG VIẾT XONG DU KÝ MỞ HỘI LỚI
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 6 tháng 6 năm Mạu Ngọ (1978)
Thơ:
Thiên hoá pháp vũ kết dao thiên
Ngọc quyển tu thành nhất đoá liên
Thánh sách phù quang thuỳ vạn cổ
Du thư tự tự ký hoàn toàn.
Dịch:
Kinh vàn mưa pháp Phật trao truyền
Quyển ngọc tu thành một đoá sen
Sách Thánh hào quang ngời vạn thuở
Lời lời Du Ký chép không quên.
Tế Phật: Hôm nay là ngày vui sướng vì mất trọn hai năm dạo thăm âm phủ để ghi
chép sách Địa Ngục Du Ký, giờ đây mới tới được chương kết thúc. Bộ sách quí giá
hiếm hoi trên đời này đã nói hết chân lý của nhân sinh, có người không tin,
nhưng trạng huống có thật mà chư sinh dạo âm phủ suốt hai năm qua hẳn đã thấy rõ
như màn ảnh hiện hình người thật, việc thật. Cho nên ta hy vọng chúng sinh dưới
gầm trời, tin cái có chẳng thể tin cái không, lãnh hội được "sinh" là cái khởi
đầu nhỏ nhoi, "tử" mới là cái kéo dài bất tận. Do đó lúc sống dù có biết trước
cũng chẳng thể nhận ra được một phần trăm "chết". Hãy nhìn đám u hồn đang kéo đi
lũ lượt trên ngả đường dẫn tới âm phủ! Tự cổ chí kim, kẻ sĩ trung hiếu tiết
nghĩa sau khi chết, một luồng linh quang phấp phới bay lên thiên đường, lưu lại
hương thơm muôn đời, hiện rõ tâm trung trinh, đại tiết. Còn nếu như bọn phản bội
chân lý, chính nghĩa, luân thường, sau khi chết linh hồn ô uế chẳng thể kham nổi
tối tăm trầm luân ở địa ngục. Nguyện chúng sanh sau khi đọc xong sách Địa Ngục
Du Ký như tỉnh cơn mộng lớn, chớ lại si mê trong cảnh tình phàm tục vì càng rơi
càng sâu, cuối cùng không cứu chữa! Bữa nay là lần dạo âm ty cuối cùng, Dương
Sinh hãy lên tinh thần, y phục đoan trang, chuẩn bị xuống âm ti lãnh thưởng.
Dương Sinh: Thưa ân sư, niềm vui ngập tràn lòng, con nói chẳng nên lời, hai thầy
trò phụng chỉ viết sách, nhiệm vụ sắp hoàn thành mới có thể nhẹ nhõm thư thả một
chút.
Tế Phật: Người có chí việc ắt thành, Trời không phụ kẻ có lòng, mong gắng tinh
tiến, mau lên đài sen.
Dương Sinh: Bữa nay đài sen tại sao to lớn một cách đặc biệt, lại có hào quang
toả bốn phía?
Tế Phật: Vì từ hai năm nay mình luôn lui tới âm phủ dương gian để phục vụ, nên
đoá sen này cũng được điêu luyện mà trở thành to lớn, mạnh mẽ phát hào quang.
Dương Sinh: À thì ra nguyên nhân là như vậy, quả là ảo diệu vô cùng...
Tế Phật: Đã tới nơi, mau xuống đài sen.
Dương Sinh: A! Quảng trường trước mặt náo nhiệt quá, tiên nhạc diễn tấu vang
vang bên tai, các bàn tiệc chạm trổ bằng ngọc thạch đã bày biện sẵn, nhưng quan
khách đi đi lại lại đều là những người con chưa từng nhìn thấy bao giờ. Có người
mặc áo tu sĩ bay phấp phới, cũng có sa di, nho sĩ cùng nhân sĩ các nước đều bận
đồ tu hành, chẳng rõ họ từ phương xa nào tới?
Tế Phật: Nhân phụng chỉ viất sách Địa Ngục Du Ký sắp xong, U Minh Giáo Chủ đặc
biệt thết yến tại trước cung Địa tạng để ban lễ ăn mừng. Bữa nay chúng ta là
thượng khách, con thấy tiên sứ, sa di, nho sĩ, các vị tân khách cùng Bồ Tát Địa
tạng Vương đã tiến ra nghinh tiếp chúng ta, mau tiến lại lạy chào ra mắt.
Dương Sinh: Vái chào Bồ Tát Địa tạng Vương cùng chư vị Đạo Trưởng. Tại hạ là môn
sinh của ân Chủ Quan Đế thuộc Thánh Hiền Đường ở Đài Trung, phụng chỉ theo tế
Phật dạo địa ngục viết sách, thừa hưởng tâm từ bi của Bồ tát Địa Tạng Vương, sắc
lệnh cho các ty các ngục ở âm phủ giúp đỡ công tác viết sách, bữa nay nhiệm vụ
hoàn thành, đặc biệt theo ân sư cùng tới bái tạ, không quản nhọc nhằn, Giáo Chủ
bày biện cảnh trí như thế này, thật ra là quá ngạc nhiên và cảm động.
Giáo Chủ: Mời Dương Thiện Sinh đứng lên, nhà ngươi cùng Tế Phật quá gian lao khổ
cực, đã từ hai năm nay bôn ba khắp nẻo đường địa ngục, tâm cứu độ chúng sinh quí
giá thực là hiếm có, ta bữa nay đặc biệt thiết yến để chúc mừng, công thành mà
sách cũng thành, mời Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh vào trong, đăng thượng toà.
Dương Sinh: Thưa không dám.
Tế Phật: Bữa nay U Minh Giáo Chủ Bồ Tát Địa Tạng Vương đặc biệt vì mình thiết
yến, ta thấy hà tất phải thối từ, khổ cực suốt hai năm mới được một chút vinh dự
này, theo ta lên trên ngồi.
Dương Sinh: Xin ân sư ngồi, còn con đứng hầu. Tiệc hội mừng này, người tới mỗi
lúc mỗi đông, người nào người nấy đầu toả hào quang, tin tưởng là đạo hạnh sâu
dầy.
Giáo Chủ: Bữa tiệc hôm nay cốt để chúc mừng sách Địa Ngục Du Ký đã viết xong,
nhân vì địa ngục đều được các tôn giáo trên thế giới thừa nhận, cho nên bất luận
đạo Nho, Thích, Gia Tô, Hồi, hay các tôn giáo mới thiết lập khác, từ giáo chủ
cho chí tín đồ đều mời tham dự hết, do đó mà chư thiên đã phái các tiên sứ,
thiên sứ tới tham dự hội lớn. Dao Trì Kim Mẫu còn đặc biệt ban đào tiên cùng
rượu Quỳnh Tương, Dương Thiện Sinh ngươi thật là có phước.
Dương Sinh: Cảm tạ sự chiếu cố của Thánh, Phật, Tiên, Thần, thuộc các tầng trời,
hiện thời tiếng thiên nhạc hoà tấu vang vang...
Giáo Chủ: Hội lớn sắp khai mạc, giáo chủ các tôn giáo cùng Quan Âm Đại Sĩ cũng
giáng lâm.
Đại Sĩ: Bữa nay may mắn gặp Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh.
Dương Sinh: Lạy chào Quan Âm Đại Sĩ.
Giáo Chủ: Đã tới giờ khai mạc đại hội, tấu Thánh nhạc... Chư vị yên vui. Quý vị
đều là khách quí từ thiên đường bữa nay xuống thăm địa phủ, khiến âm ti đại
phóng quang minh, nhân Thánh Hiền Đường tại tỉnh Đài Trung ở Đài Loan thuộc Nam
Thiên Bộ Châu khâm phụng Ngọc Chỉ của Ngọc Đế, dạo âm phủ viết sách để khuyên
hoá thế đoạ nhân tâm, khí ô trược lắng trong. Phật Sống tế Công tính thích khôi
hài, người đời gặp Tế Phật muôn lòng đều vui vì Tế Phật mượn cớ điên cuồng giúp
đời, mỗi lời mỗi tiếng như giọt sương ngọt ngào, vị thuốc tiên, vị nước cam lồ
tuyệt diệu có thể cải tử hoàn sinh, cho nên Ngọc Đế ra lệnh Tế Phật phải lo dẫn
đường, không những là người thấu suốt âm ty mà còn có thể chuyển thiên cơ một
cách hết sức sinh động cùng tuyệt vời. Dương Thiện Sinh là đệ tử chính của đàn
cơ Thánh Hiền Đường tính linh trong lành sáng suốt, theo Phật Sống trải khắp các
ngục mười cửa điện, công khuyến thế sâu dầy. Bữa nay sách hoàn tất, đặc biệt cử
hành tiệc này một là để biểu lộ ý chúc mừng, hai là để bày tỏ thế giới tuy lớn
nhưng tại linh giới các giáo không hề thấy có cửa ngõ như bữa nay tại đây, nhân
sĩ các giáo ngồi chung, hoà khí vui tươi, hiển lộ rõ cảnh tượng đại đạo hết sức
vô tư không hề phân biệt chia rẽ. Mong chúng sanh trong thiên hạ nhận rõ lẽ này
mà tìm về chân lý, tu tâm dưỡng tánh, tôn kính giữ gìn đạo đức Khổng Mạnh. Nếu
như vứt bỏ luân lý cương thường sẽ càng thêm tính dã man hẳn là không được hưởng
phúc văn minh chút nào. hành đại đạo, coi thiên hạ là chun, từ cái yên nhỏ mà
đun đẩy thế giới tiến đến đại đồng, đó mới là hạnh phúc của chúng sinh. Xin
ngừng lời tại đây. Khai tiệc...
Tế Phật: Dương Sinh, đừng làm khách. Đây là rượu Quỳnh Tương cùng đào tiên Vương
Mẫu, ăn uống vào có thể kéo dài tuổi thọ.
Dương Sinh: Cảm tạ ân sư, con không khách sáo, nhân cơ hội này con ăn nhiều
hơn...
Giáo Chủ: Hoan nghênh Sư Tổ Lữ Thuần Dương đã tới.
Lã Tổ: Xin Giáo Chủ chớ quá lễ độ, tôi kính vâng lời dạy của Ngọc hoàng, đặc
biệt mang giấy ban khen sách tới giao cho Dương Sinh đem về làm phần thưởng cho
việc viết sách của thánh Hiền Đường.
Dương Sinh: Lạy tạ ơn Trời.
Giáo Chủ: Mời Sư Tổ dùng tiệc.
Lã Tổ: Đa tạ...
Giáo Chủ: Vì thời giờ đã muộn, sự tiếp đãi như có điểm nào không được chu toàn,
xin chư vị cao minh chân chính tha thứ. tế Phật cùng Dương Thiện Sinh bữa nay
tới đây dự hội, tôi cảm ấy lòng vui sướng vạn phần, cửa thiền phát huy đạo giáo,
ứng thiên cơ thuyết pháp là một nghĩa cử thuận lòng trời, hợp lòng người. Quyển
sách Địa Ngục Du Ký nọ viết nên được là hoàn toàn nhờ dựa vào bút liễu cành đào,
thông tính linh truyền chân lý của Thánh xưa ban. Người đời nên hiểu sự dụng tâm
của Trời, cố gắng tôn kính vâng theo lương tâm thiên lý, sau khi chết mới được
miễn hình phạt của mười cửa điện. Danh xưng Bồ tát Địa Tạng là tiếng tôn xưng
nơi cửa Phật, còn như cửa đạo lại tôn xưng tôi là Phong Đô Đại Đế, cũng như âm
phủ còn gọi tôi là Phông Đô Địa Ngục, người đời phần lớn chưa rõ, bữa nay nhân
Địa Ngục Du Ký viết thành phụ làm lời nói cuối sách để người đời được tỏ.
Tế Phật: Đài sen hiện giờ lơ lửng giữa không trung, từ hai năm nay chư sinh
thuộc Hiền Đường gian lao khổ cực mới gặt hái được đạo quả, ta không có lễ vật
ban tặng, nên đem toà sen này ban cho Dương Sinh để làm vật kỷ niệm vì suốt hai
năm qua thầy trò ra vào chốn u minh viết sách, hy vọng Dương Sinh rất yêu quí
nó.
Dương Sinh: Cảm tạ ân sư đã ban toà sen nhận xong mới cảm thấy thẹn thùng. Con
nguyện tôn trọng lời thầy dạy cùng trong mong từ đây mãi mãi về sau ân sư có thể
tuỳ thời mở đạo.
Tế Phật: Phật ở bên cạnh con, chỉ cần con giữ vững tâm Phật, ắt có thể thành
Phật vậy.
Giáo Chủ: Bình rượu Quỳnh Tương đặc biệt này, mời Dương Thiện Sinh mang về Thánh
Hiền Đường tặng toàn thể môn sinh uống, họ cũng quá khổ cực gian lao. Phàm kẻ ấn
tống hay thuyết giảng sách Địa Ngục Du Ký để khuyên đời, ngày đêm Du Thần tuỳ
thời đi tuần để kiếm tra rồi về báo cáo, địa phủ đều có hồ sơ lưu giữ, phàm có
điều sở cầu đều có thể hiệu nghiệm như âm thanh tương ứng. Hy vọng nhiều người
phát tâm in tặng để truyền bá khắp trong thiên hạ, công đức kêu gọi lòng người
thực tỉnh thức quả là vô lượng. Sau hết xin chúc Thánh Hiền Đường môn sinh công
quả tròn đầy, vận mayhưng phát.
Tế Phật: Dương Sinh, chúng ta chuẩn bị trở lại thánh Hiền Đường.
Dương Sinh: Cảm tạ Ngọc Đế, Giáo Chủ Ân Sư cùng chư vị Đạo Trưởng đã che chở chỉ
dạy, vĩnh viễn khó quên ơn, ước mong tái ngộ.
Giáo Chủ: Mời quý vị đang an toạ đứng lên, tiễn chân tế Phật cùng Dương Thiện
Sinh trở lại Hiền Đường.
Tế Phật: Rượu Quỳnh Tương phải giữ khéo, đó là báu vật sau hai năm khổ cực gian
lao mới thâu hoạch được.
Dương Sinh: Thưa con sẽ không để thất lạc, đã giữ kỹ thành quả này, giấy khen
cũng cất trong bọc. Con đã lên đài sen. Mời ân sư trở lại Hiền Đường.
Tế Phật: Vì ai mà khổ cực vì ai mà gian nan? Âm Dương Giới, Quỷ Môn Quan, đi
khắp cõi Âm tào Địa Tạng, hai năm vắt cạn tâm huyết, tung hết sức lực là cốt
mong chúng sinh bỏ ác theo thiện đến nay nguyện ước đã thành, cái còn lại chỉ là
nhìn chúng sinh có quay đầu hướng vào bờ hay không mà thôi. Địa Ngục Du Ký viết
xong, tâm thần được vui vẻ thanh nhàn. Muốn tu, không tu ta chẳng quản, đoạ địa
ngục, lên thiên đường đều do người đời tự mình đi tới, nhớ đấy nhớ đấy! Mong ước
chúng sinh như hoa sen "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Đã tới Thánh Hiền
Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác. ta cùng đồng tử Ngọc Hư
phải trở về trời trả sắc chỉ.
NGỌC CHIẾU
Bản đường ty lễ thần đăng đài
ngày 3 tháng 5 năm Mậu Ngọ (1978)
Đức Thánh dạy: Phút này Ngọc Chỉ sắp giáng, lệnh cho Thành Hoàng ngoài 5 dâm,
Phúc Thần ngoài 10 dậm nghinh tiếp. Tất cả đệ tử nghiêm chỉnh đón giá.
Kim Khuyết Nội Tướng Từ giáng bút
Thơ:
Bát nguyệt trung thu ban thánh điển
Đại Thiên thế giới phóng quang minh
Chước thư nghi thức nghi long trọng
Xá tội tiêu khiên công cáo thành.
Dịch:
Tháng Tám trung thu ban thánh điển
Đại Thiên thế giới phóng hào quang
Trang nghiêm kính cẩn khi dâng sách
Oan giải tội tha để thưởng công.
Đức Thánh dạy: Ta đêm nay phụng mênh mang sắc chỉ tới tuyên đọc. Thần nhân phủ
phục.
Khâm phụng Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn Huyền Linh Cao Thượng Đế chiếu viết: "Xét
Thánh Hiền Đường ở Đài Trung do quyết nghị của Thánh Hội Linh Tiêu đã phụng mệnh
trước tác sách Địa Ngục Du Ký, kể từ rằm trung thu năm Bính Thìn bắt đầu khai
bút tới rằm tháng tám năm Mậu Ngọ này vừa đúng hai năm. Trong khoảng thời gian
này Dương Thiện Sinh đã dạo thăm mười cửa điện phỏng vấn các ngục, những bằng
chứng thâu lượm được cao như núi, được tiết lậu hết trong sách Địa Ngục Du Ký,
kho tài liệu này trước đây đã đăng tải từng kỳ trên tập chí Thánh Hiền Đường để
phổ biến trong các giới đồng bào. Tới rằm tháng tám năm nay in thành sách xong
đem 108 cuốn bày lên hương án, đốt ba cuốn, một dâng Thiên Đình, hai dâng Địa
Phủ, ba dâng các Thần hoàng cõi nhân gian dưới gầm trời để tỏ lòng sùng bái chư
thần ba cõi đất trời người. Các ty ở âm phủ rất ngợi khên thành quả tốt đẹp này,
nên ngoài việc chiếu theo công ban thưởng và đại xá cho các tội hồn một lần còn
cử hành hội lớn để chúc mừng, cùng dâng bản tường trình lên đức U Minh Giáo Chủ.
Chốn dương gian những ai không quản ngại gian lao khổ cực dốc tâm công quả trong
việc viết sách, in tặng, cùng phổ biến có thành tích đều được ban thưởng. Phải
ghi rỏ tên họ, địa chỉ, số lượng sách và sở nguyện của những người in tặng sách
vào tờ biểu chương để còn đốt và tâu lên thượng giới các công trình đáng ghi nhớ
của những tấm lòng quảng đại thiết tha vì đạo nghĩa. Suốt hai năm qua chư sinh
chịu bao khổ cực gian lao mới đạt được kết quả lớn lao, mong tiếp tục gặt hái
được nhiều thành công khả quan hơn nữa hầu sửa ngay thế đạo, dẹp sạch phông hoá
đồi truỵ để mạnh tiến đến đại đồng. Chớ trái lệnh Trẫm"
Kính cẩn vâng lời không dám xao nhãng, cúi đầu tạ ơn
Thiên vận ngày 3 tháng 5 năm Mậu Ngọ (1978).
------
ĐỀ BẠT
Phật Sống Tế Công giáng
Về Học thuyết linh hồn, dầu với phương tiện khoa học kỹ thuật tân tiến ngày nay
cũng chỉ thâu tỏ được một đôi phần nhỏ nhoi không đáng kể. Do đó ngoài phương
thức dày công tu luyện tinh thần, khai thông huệ nhãn chẳng thể nhìn rõ được vấn
đề. Cơ thể con người do ba nguyên tố "tinh, khí, thần" tổ hợp, còn cái thân
huyển ảo túi cơm giá áo này làm sao có thể tồn tại được lâu, bởi một sớm đất
nước gió lửa biến hoá ắt xương thịt rữa nát tan thành tro bụi, người ra đi để
lại lầu hoang gác trống. Cũng nhờ vậy mà linh hồn được chuyển kiếp, thân xác
được hoá sinh, con người thay hình đổi dạng, mang bộ mặt mới chào đời. Những bậc
tiên tri thuộc các tôn giáo cổ kim trong ngoài, hoặc những vị có năng lực thông
tỏ siêu linh, mắt họ đều có thể nhìn rõ việc này và làm chứng cho lời nói của
ta.
Việc trước tác sách Địa Ngục Du Ký là do lòng trời thương xót chúng sinh từ lâu
đắm chìm trong cõi hồng trần. Đã từ lâu ba khối trược ác độc "tham sân si" mặc
sức hoành hành nhận chìm đạo đức gây nhiều nghiệp chướng khiến xã hội ngày càng
đoạ lạc. Bởi vậy cần phải gấp rút xây dựng lại giềng mối đạo cho đời, cùng hoàn
cảnh sống tốt đẹp cho người, đặc biệt được phép tiết lộ cảnh huống trung thực ở
âm phủ để cảnh cáo và biến cải thế tục, kêu gọi cùng hướng dẫn quay về đường
nhân từ, đẩy mạnh chân lý đạo nghĩa, để bồi đắp lòng tin tưởng nhiệt thành, trí
lương tri sáng suốt, kẻ phàm nếu có duyên may gặp được sách Địa Ngục Du Ký này
nếu như chịu khó đọc và nghiền ngẫm ắt là "buông dao đồ tể". Ta chân thành cầu
chúc đọc giả "Minh tâm kiến tánh và thành Phật". Hai năm qua lòng ta đã xúc động
quá nhiều, giờ đây sóng tâm lại cảm ứng cùng Thái Thượng, kính cẩn dẫn mấy câu
để thay lời kết ở cuối sách: "Hoạ phước vô môn, duy nhân tự chiêu. Thiện ác chi
báo, như ảnh tuỳ hình". (hoạ phước không cửa, chỉ tại người tự chuốc . Thiện ác
trả vay như bóng theo hình).
Thánh Hiền Đường, bần tăng tế Công kính bạt.
Ngày 29 tháng 6 năm Mậu Ngọ 91978).
------
(Lời Cuối Của Bản Đường)
Thơ:
Liễu ngộ do như dạ đắc đăng
Vô song ám thất hốt khai minh
Thử thân ất hướng kim sinh lộ
Cánh đãi hà thời độ thử thân.
Dịch:
Ngộ đạo quả như tối gặp đèn
Sáng bừng phòng kín giữa đêm đen
Thân này không gắng đời này độ
Đợi đến đời nào mới độ thân.
HẾT
Note: Hoi 31 thru end posted up to forum by nghialuv123.