Trại Hoa Hường
Qua ngày hôm sau, Thầy trò chúng tôi sửa soạn để trở về tư tưởng viện
Chakpori. Chúng tôi không vội vàng lắm vì chúng tôi cảm thấy được nghỉ ngơi
thoải mái tại điện Potala. Trước khi lên đường, tôi bước nhanh lên nón điển
để ngắm nhìn phong cảnh một lần cuối cùng. Xuyên qua cái ống dòm nhìn về nóc
tư tưởng viện Chakpori, tôi thấy một thiếu nhi sơ cơ đang nằm dài trên sân
thượng để đọc sách, thỉnh thoảng lại ngừng đọc để ném những viên sỏi nhỏ lên
cái đầu trọc của các sư sãi đang đi qua lại ở sân dưới. Trong ống dòm tôi
nhìn thấy nụ cười ranh mãnh của y, khi y vội vàng ẩn núp để tránh những cái
nhìn ngạc nhiên mà các nạn nhân của y phóng lên trời. Nhân dịp này, tôi cảm
thấy băn khoăn lo sợ vì chắc hẳn là đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nhìn thấy chính
tôi có nhiều lần đùa nghịch giống y như vậy! Kể từ khi đó, tôi quyết định
giới hạn những sự nghịch ngợm tinh quái của tôi ở những góc nhà của tu viện
mà người ta không nhìn thấy được từ trên nóc điện Potala.
Giờ lên đường đã điểm. Chúng tôi từ giã và cám ơn các vị Lạt Ma đã giúp cho
thời gian lưu trú ngắn ngủi của chúng tôi tại đây được thoải mái và dễ chịu.
Chúng tôi cũng tỏ lòng ưu ái cảm tạ viên Huỳnh Môn Quan của đức Đạt Lai Lạt
Ma, là người thủ kho lương thực, đã phân phát trà bánh và kẹo mứt ngon có
tiếng nhập cảng từ bên Ấn Độ cho chúng tôi dùng tự do tùy thích. Viên Huỳnh
Môn Quan chắc hẳn là có thiện cảm với tôi, vì lúc từ giã, người còn đưa tặng
cho tôi một món quà ngon mà tôi không ngần ngại đút vào miệng nhai liền khi
đó. Sau khi ăn uống no đầy đủ lấy sức, chúng tôi bắt đầu đi xuống cầu thang
lớn để trở về tu viện. Chúng tôi vừa xuống được nửa cầu thang, thì nghe
những tiếng gọi giật lại, những sư sãi đi ngang qua đó ra dấu cho chúng tôi
hãy quay đầu nhìn lại phía sau. Một sư sãi hộc tốc chạy xuống cầu thang vừa
thở dốc và chuyển giao một thông điệp cho Minh Gia Đại Đức. Sư Phụ tôi nói:
- Lâm Bá, con hãy đợi ta ở đây, ta đi sẽ không lâu.
Kế đó, người quay lưng đi trở lên cầu thang. Tôi bèn đi dạo chơi thơ thẩn
một mình, nhìn xem phong cảnh, và ngắm nhìn ngôi nhà cũ của tôi ở đằng xa.
Tôi đang miên man nghĩ đến những kỷ niệm xưa, thì vừa quay đầu trở lại, tôi
xuýt nữa thì té ngửa khi tôi thấy cha tôi cưỡi ngựa chạy về phía chỗ tôi
đứng. Đúng vào lúc mà tôi nhìn cha tôi, thì người cũng thấy tôi. Cha tôi hơi
nghiêng đầu tới trước để xem cho rõ khi người nhận ra tôi. Nhưng cha tôi đi
ngang qua trước mặt tôi mà không nhìn tôi nữa. Tôi cảm thấy lòng buồn vô
hạn. Tôi nhìn theo cha tôi đi ra xa. Tôi gọi theo: "Cha!" Nhưng người vẫn
tiếp tục thong thả cưỡi ngựa đi luôn dường như người không nghe tiếng tôi
gọi. Tôi rơm rớm nước mắt và run lên vì xúc động. Nếu lúc ấy tôi đứng giữa
đám đông người, thì tôi đã tự chuốc lấy một điều bẽn lẽn, hổ thẹn trước công
chúng, và nhất là lại ở trên cầu thang của điện Potala! Với một ý chí làm
chủ bộ thần kinh đa cảm của mình, nó làm chính tôi cũng phải ngạc nhiên, tôi
ngẩn mặt lên và nhìn về phía thành phố Lhassa.
Nửa giờ sau, Minh Gia Đại Đức đã trở xuống với hai con ngựa và nói với tôi:
- Lâm Bá, hãy mau lên ngựa, chúng ta phải đi mau đến viện Séra, vì một trong
các vị sư già mới bị tai nạn.
Nhận thấy ở mỗi bên yên ngựa đều có treo một bao da, tôi đoán rằng đó là
những bao đựng đồ y (dược và dụng cụ) của Sư Phụ trên đường Lingkhor, chúng
tôi sãi ngựa qua trước nhà của tôi; những người hành hương và hành khất đều
tránh qua một bên đường. Không bao lâu, chúng tôi đến tu viện Séra, tại đây
đã có một nhóm sư sãi đã đứng đợi chúng tôi. Chúng tôi xuống ngựa, mỗi người
cầm một bao y cụ trong tay; khi ấy một vị sư đưa chúng tôi vào một phòng tại
đây có một vị lão tăng đang nằm thoi thóp.
Vị lão tăng có sắc mặt nhợt nhạt như chì, nguồn sinh lực của ông dường như
đã sắp tàn. Minh Gia Đại Đức gọi đem nước sôi; nồi nước sôi đã sẵn sàng,
người bèn bỏ vào đó vài nhúm dược thảo. Trong khi tôi quậy nồi nước sôi cho
ngấm thuốc, Sư Phụ tôi khám bịnh cho vị lão tăng và được biết vị này vừa bị
té vỡ sọ từ trên cao xuống đất. Một cái xương dẹp trên đầu bị trật khớp đè
lên óc, làm ông ta bất tỉnh nhân sự.
Khi nồi nước thuốc đã nguội bớt, chúng tôi dùng một ít để rửa trán của người
bịnh. Sư Phụ cũng lấy nước thuốc ấy để rửa tay và ngâm những đồ y cụ giải
phẫu vào nồi thuốc để khử trùng. Nhờ công dụng của chất thuốc ấy, vết thương
của ông lão không còn rỉ máu nhiều. Kế đó, Sư Phụ lấy trong nồi thuốc ra hai
cái gắp bằng bạc, đầu dẹp và có răng cưa. Người cẩn thận dùng hai cái gắp ấy
lật miếng da đầu bị rách lên, đỡ lấy cái xương sọ bị trật khớp và đặt nó nằm
ngay trở lại vị trí cũ. Xong, người nói:
- Cái xương sẽ tự nó hàn gắn vào khớp trở lại như thường, và không còn đè
lên óc nữa.
Người lại rửa vết thương với chất nước thuốc, và đặt lại chỗ cũ cái mảng da
đầu đã đặt lên lúc nãy. Sau đó người mới may kín vết thương bằng lông bờm
ngựa trụng nước sôi và đắp thuốc lên trên rồi băng lại cẩn thận.
Sau khi bộ óc ông ta được giải tỏa khỏi miếng xương sọ đè lên trên, vị lão
tăng đã bắt đầu lấy sức lại và cảm thấy khỏe dần. Chúng tôi đặt thêm vài
chiếc gối dưới lưng để cho ông ta có thể ngồi nhổm dậy một cách thoải mái.
Tôi rửa sạch các đồ y cụ, rồi lau bằng một miếng giẻ đã khử trùng và sắp lại
cẩn thận trong hai cái bao da. Khi tôi rửa tay, vị lão tăng mở mắt ra và nở
một nụ cười yếu ớt khi ông ta nhận ra Minh Gia Đại Đức đang ngồi bên cạnh
giường. Ông lão nói:
- Tôi biết chỉ có ông là người duy nhất có thể cứu được tôi, vì thế tôi đã
gửi một thông điệp bằng tư tưởng đến điện Potala. Sứ mạng của tôi ở thế gian
chưa hoàn tất, vì vậy nên tôi chưa sẵn sàng rời bỏ thể xác.
Sư Phụ tôi chăm chú nhìn ông lão và đáp:
- Sư ông sẽ chóng khỏi. Chỉ cần chịu đựng vài ngày khó nhọc nữa, một hay hai
cơn nhức đầu, rồi sau đó sư ông sẽ bình phục lại sức khỏe và làm việc như
bình thường. Tuy nhiên, trong khi ngủ, phải có một người trực một bên để giữ
cho sư ông đừng nằm dài. Nội trong ba hay bốn ngày nữa, là sư ông sẽ thoát
nạn.
Tôi bước lại gần cửa sổ. Thật là một điều lý thú mà nhìn xem cách sinh hoạt
của các sư sãi của một tu viện khác. Sư Phụ bước đến gần tôi và nói:
- Bây giờ, ta sẽ đưa con đi viếng thăm một cộng đồng sư sãi sinh hoạt rất
khác hẳn với tư tưởng viện của chúng ta.
Sau khi đã giao người bịnh cho một vị Lạt Ma săn sóc, chúng tôi bước ra
ngoài hành lang. Tu viện này không được gìn giữ sạch sẽ như tư tưởng viện
Chakpori. Kỷ luật cũng không được nghiêm ngặt lắm: Các sư sãi đi lại tự do
tùy ý. So với tư tưởng viện của chúng tôi, thì các thánh điện của họ không
được săn sóc lau chùi tươm tất; mùi nhang khói ở đây cũng nồng nặc hơn. Từng
nhóm trẻ con chơi ở ngoài sân: ở Chakpori, thì giờ này chúng phải làm việc
ráo riết. Tu viện này hoàn toàn thiếu trật tự, sạch sẽ và kỷ luật mà tôi vẫn
thường coi như là những điều luật căn bản. Sư Phụ tôi hỏi:
- Lâm Bá, con có muốn ở lại tu viện này và sống một cuộc đời dễ dãi tự do
như họ chăng?
Tôi đáp:
- Bạch Sư Phụ, chắc chắn là không. Con nghĩ rằng họ chỉ là một tập đoàn
người man rợ.
Sư Phụ bật cười:
- Thế là ở đây có tất cả bảy người man rợ, và như vậy là hơi nhiều! Chỉ cần
có một thiểu số người bê bối là đủ làm cho cả một tập đoàn phải mang tiếng,
con biết không?
Một sự thật hiển nhiên mà mọi người đều biết rõ, là tu viện của chúng tôi có
một kỷ luật gắt gao nhất, còn ở hầu hết những tu viện khác thì kỷ luật rất
là lỏng lẻo. Ở những nơi đó, nếu một sư sãi muốn giải đãi, lười biếng, thì y
được tự do lười biếng mà không ai nói gì. Tu viện Séra, còn biết dưới cái
tên riêng là "Trại Hoa Hường," ở cách điện Potala năm cây số và là một thành
phần của nhóm cộng đồng tu viện gọi là "Tam Đỉnh Viện." Trong cộng đồng này
thì tu viện Drebung với dân số không dưới mười nghìn sư sãi, là tư tưởng
viện lớn nhất. Kế đó là tu viện Séra với độ chừng bảy ngàn năm trăm sư sãi,
và sau hết là tu viện Ganden với gần sáu nghìn sư sãi. Tất cả ba tu viện này
đồ sộ nguy nga như những thành phố thật sự, với những đường sá, trường học,
đền thờ và tất cả những cơ quan, dinh thự quản trị hành chánh cần thiết.
Những sư sãi cảnh binh xuất xứ từ những vùng Kham đi tuần phòng thường xuyên
ở các đường phố. Nhưng bây giờ thì chắc là quân Trung Công đã thay chân của
họ! Tu viện Chakpori tuy nhỏ nhưng có thế lực rất lớn. Với tư cách là một Y
Viện, nó cũng là Trung Tâm Y Khoa của quốc gia, và có một số đại diện quan
trọng trong Hội Đồng Chánh Phủ.
Ở tu viện Chakpori, người ta dạy cho chúng tôi môn võ thuật Tây Tạng. Không
phải tất cả các tu viện đều có dạy môn võ thuật này. Trong tu viện của chúng
tôi, môn võ thuật ấy được sử dụng để tập luyện cho các thiếu sinh biết tự
vệ, làm chủ những phản ứng tự nhiên của mình, làm tê liệt giác quan của một
người vì mục đích giải phẫu y khoa, và để có thể di chuyển một cách an toàn
trong những vùng nguy hiểm nhất. Thật vậy, với tư cách là những vị Lạt Ma y
sĩ, chúng tôi luôn luôn phải di chuyển đến tận những vùng hiểm trở, xa xôi,
đầy những sự bất trắc, hiểm nghèo.
Võ sư Tzu, như đã nói trước đây, là một chuyên viên về môn võ thuật tự vệ,
có lẽ là vị võ sư giỏi nhất của xứ Tây Tạng. Ông đã dạy tôi tất cả những gì
ông biết, với một tinh thần trách nhiệm và chỉ để lấy làm hài lòng vì đã làm
tròn bổn phận của một võ sư. Phần nhiều những người đã trưởng thành và thành
niên đều biết một vài thế võ sơ đẳng để hộ thân, nhưng về phần tôi, tôi đã
tập luyện những thế võ đó từ khi mới lên bốn tuổi. Chúng tôi nghĩ rằng môn
võ thuật này chỉ dùng để tự vệ và tự làm chủ lấy mình, chứ không nên dùng để
biểu diễn trên võ đài như những tay thí võ chuyên nghiệp. Ở Tây Tạng, người
ta thường nói rằng một người giỏi võ và có sức mạnh có thể rất ôn hòa hiền
lành, còn những sự phô trương khoác lác là đặc tính của kẻ yếu. Với môn điểm
huyệt, người ta có thể làm tê liệt giác quan của một người, nó có tác dụng
như việc chụp thuốc mê để làm cho y không còn biết đau đớn khi cần phải giải
phẫu, nắn lại khớp xương bị trặt, hay nhổ răng chẳng hạn. Người ta có thể
làm cho một người trở nên bất tỉnh nhân sự, mà y không hay biết mình đã bị
điểm huyệt, và vài giờ hay vài phút sau đó, y sẽ thức tỉnh và vẫn sáng suốt
như cũ mà không bị một ảnh hưởng nào. Có điều lạ, là một người bị điểm huyệt
lúc y đang nói chuyện, bị bất tỉnh và ngủ mê đi, đến khi thức tỉnh dậy y lại
tiếp tục câu nói bị đứt đoạn từ lúc đầu. Vì môn điểm huyệt này vô cùng lợi
hại như vậy, nên môn võ thuật tự vệ và điểm huyệt bí truyền của Tây Tạng chỉ
được truyền thụ cho những môn đồ đã trải qua những cơn thử thách vô cùng gắt
gao. Hơn nữa, để cho được cẩn mật và an toàn đến mức tuyệt đối, họ còn chịu
một vài phép dẫn dụ bằng khoa thôi miên, để cho họ không thể nào lạm dụng
quyền năng về sau này.
Một tu viện Lạt Ma ở Tây Tạng không phải chỉ là một nơi trú ngụ của những
người có chí hướng về đường tu hành mà đó cũng là một thành phố tự trị với
những cơ quan quản trị nội bộ và những nơi giải trí, tiêu khiển. Ở đó có cả
những hí viện để trình diễn những màn kịch nghệ tôn giáo và văn hóa truyền
thống. Những sư sãi nhạc công luôn luôn sẵn sàng biểu diễn tài nghệ để giúp
vui và để chứng tỏ rằng không một công đồng tu viện nào khác có những nhạc
công tài giỏi như họ. Những sư sãi có tiền của riêng có thể mua sắm các thức
ăn, quần áo, đồ xa xí phẩm và sách vở trong các cửa tiệm. Những vị nào mốn
tiết kiệm có thể gửi tiền vào những tào ngân khố, hoạt động giống như các
ngân hàng. Tất cả những cộng đồng sinh hoạt trên thế giới đều không khỏi có
những kẻ bất lương phạm pháp. Trong tu viện Lạt Ma Giáo, những kẻ bất lương
này bị các sư sãi cảnh binh bắt giữ và đưa ra một tòa án riêng để xử tội họ
một cách công bình. Nếu xét ra họ phạm pháp, họ sẽ phải đền tội trong khám
đường của tu viện.
Trong tu viện, có những trường học để cho mỗi đứa trẻ có thể thọ lãnh một
nền giáo dục thích nghi với tính chất cùng trí khôn của chúng. Người ta giúp
đỡ những đứa học trò ưu tú để xây dựng cho chúng một tương lai, nhưng ở phần
nhiều các tu viện, trừ ra tu viện Chakpori, những học trò lười biếng được tự
do chơi bời, ngủ nghê hay dùng thời giờ để ngồi không và mơ mộng. Thật vậy,
người ta nghĩ rằng vì người ta không thể nào ảnh hưởng đến cuộc đời của kẻ
khác, nên tốt hơn là hãy để cho họ vớt vát lại thời giờ đã mất trong một...
kiếp sau! Ở tu viện Chakpori thì không thế, và người nào không tiến bộ sẽ bị
mời đi nơi khác, đến những chỗ mà kỷ luật được dễ dàng lỏng lẻo hơn.
Trong tu viện của chúng tôi, thường có những khách viếng thăm, những người
lái buôn hoặc sư sãi, họ được lưu trú trong khách sạn của tu viện, và lẽ tất
nhiên là cũng phải trả tiền. Không phải tất cả các sư sãi đều sống độc thân.
Những người nào nghĩ rằng tình trạng độc thân không thuận tiện cho đời sống
tinh thần của họ, được tự do gia nhập vào môn phái "Mũ Đỏ" Dugpas, những
người trong môn phái này được phép lập gia đình. Nhưng đó chỉ là một thiểu
số. Trong giới tu hành, cấp lãnh đạo được tuyển chọn trong số những tu sĩ đã
lập nguyện sống độc thân, thuộc về môn phái "Mũ Vàng" Gelugpas. Trong những
tu viện "cộng đồng nam nữ, " các sư sãi và ni cô làm việc sát cánh với nhau
và gồm thành một tập đoàn hoàn toàn có tổ chức, với một bầu không khí thường
là hòa dịu hơn những tu viện chỉ đặc biệt dành riêng cho phái nam.
Sau khi đã đi quan sát mọi nơi ở Trại Hoa Hường, chúng tôi trở lại thăm vị
sư sãi già. Trong hai tiếng đồng hồ, bịnh tình của ông ta đã thuyên giảm rõ
rệt, và ông ta đã có đủ sức để chú ý đến cảnh vật chung quanh. Ông ta đã có
thể lắng tai chăm chú nghe Minh Gia Đại Đức mà ông ta có vẻ rất quý mến. Sư
Phụ nói với ông lão:
- Bây giờ chúng tôi phải đi, nhưng tôi sẽ để lại cho sư ông một ít dược
thảo. Tôi sẽ đưa chỉ thị rõ ràng cho vị sư sãi có bổn phận săn sóc sư ông.
Sư Phụ đưa cho ông lão ba cái bọc nhỏ mà người lấy ra trong cái bao da. Ba
bọc thuốc nhỏ này sẽ giúp cho ông lão được hoàn toàn bình phục và thoát khỏi
lưỡi hái của Tử Thần.
Ra đến sân ngoài, chúng tôi thấy một sư sãi nắm dây cương hai con ngựa đã
chực sẵn. Chúng tôi lên ngựa và cho ngựa đi từ từ chậm bước. Trại Hoa Hường
chỉ cách con đường Lingkhor có sáu cây số. Tôi không có ý định đi ngang qua
nhà cũ của tôi. Sư Phụ tôi có lẽ đọc được tư tưởng của tôi, vì người nói:
- Chúng ta sẽ đi qua đường để ra khu chợ. Chúng ta không có gì phải gấp rút.
Ngày mai sẽ là một ngày khác mà chúng ta còn phải sống.
Khi ra đến khu chợ búa với những phố phường đông đảo, với các cửa hàng của
người Tàu buôn bán tấp nập, tôi thầm nghĩ:
- A! Lần cuối cùng khi đi đến đây, tôi là một người tự do, khi ấy tôi chưa
phải học để trở thành tu sĩ. Tôi chỉ ước mong thời gian qua chỉ là một giấc
mộng mà tôi có thể quên hết khi tôi thức tỉnh!
Sau khi đã đi qua đường cái, chúng tôi rẽ về phía tay mặt để đến cầu Ngọc
Bích. Sư Phụ quay qua phía tôi và nói:
- Như vậy, con vẫn không muốn trở thành tu sĩ phải chăng? Đó thật là một
cuộc đời đáng sống, con biết không? Đến cuối tuần này, những sư sãi sẽ xuất
hành như mọi năm để đi hái thuốc trên núi. Thầy không để con đi với họ năm
nay. Con sẽ ở lại đây, và chúng ta sẽ làm việc chung với nhau, để cho con có
thể thi đậu kỳ thi tuyển các sư sãi ưu tú Trappa vào năm mười hai tuổi. Thầy
đã dự định đem con theo trong một chuyến xuất hành về sau này lên những vùng
Thuợng Du, tại đó có mọc những loại dược thảo rất hiếm.
Chúng tôi vừa ra khỏi làng Sho và sắp đến gần Pargo Kaling, ở cửa tây thành
Lhassa, thì một kẻ hành khất đứng nép vào tường và rên rỉ:
- Thưa bác sĩ Lạt Ma, xin ngài làm phước đừng chữa khỏi bịnh cho tôi vì nếu
tôi lành mạnh, tôi sẽ không còn phương tiện để kiếm ăn!
Sư Phụ có vẻ buồn man mác khi chúng tôi bước qua cửa thành và nói:
- Ở đâu cũng thấy những kẻ ăn mày. Họ làm cho xứ sở của chúng ta mang tiếng
xấu ở ngoại quốc. Ở Ấn Độ, ở Trung Hoa, khi thầy đến đó với đấng "Khôn
Lường," người ta nói chuyện về những người ăn mày ở xứ Tây Tạng, nhưng họ
không ngờ rằng vài người trong số đó lại rất giàu. Dầu sao, có lẽ sau việc
thực hiện lời tiên tri về Năm Con Cọp Sắt (tức 1950, quân Trung Cộng xâm
chiếm xứ Tây Tạng), những kẻ ăn mày sẽ bị bắt buộc phải làm việc. Chừng đó,
Lâm Bá, trong hai thầy trò chúng ta không ai còn ở lại xứ nhà để chứng kiến
việc ấy. Con sẽ sống ở ngoại quốc, còn thầy thì... đã trở về cõi Thượng
Giới.
Tôi cảm thấy lòng buồn vô hạn với ý nghĩ rằng có ngày Sư Phụ mến yêu sẽ từ
biệt tôi và không còn sống trên mặt đất này nữa. Hồi đó, tôi chưa biết rằng
cõi đời này chỉ là hư ảo, một loạt những thử thách, một trường học lớn để
cho ta rèn luyện tâm tánh. Trên đường về, tôi liên tưởng đến những người đi
hái thuốc. Mỗi năm, một nhóm sư sãi của tu viện Chakpori lên núi hái thuốcvề
phơi khô và dự trữ trong những bao da không thấm nước. Miền núi non xứ Tây
Tạng là nơi mà thiên nhiên dành cho con người một kho dược thảo phong phú
dồi dào bất tận. Tôi thầm nghĩ rằng mình có thể vắng mặt trong chuyến xuất
hành năm nay, và hãy chuẩn bị tinh thần để đi lên miền Thượng Du huyền bí
khi nào Sư Phụ xét ra cần thiết.
Các nhà chiêm tinh đã tiên đoán tôi sẽ thi đậu một cách dễ dàng, nhưng tôi
biết rằng tôi phải học rất nhiều. Thật vậy, sự thành công chỉ được hứa hẹn
với tôi với điều kiện tất yếu là tôi phải tự mình gặt hái lấy nó bằng sự làm
việc. Về phương tiện tinh thần, trí não, ít nhất tôi cũng đã phát triển bằng
một thiếu niên muời tám tuổi, vì tôi vẫn luôn luôn chung đụng tiếp xúc với
những người lớn tuổi hơn tôi và tôi đã phải tự lực tháo vát mọi chuyện trong
mọi trường hợp.
|