Món Linh Vật Hộ Phù
Điều mong ước lớn nhất của mẹ tôi là lập gia đình cho anh cả tôi. Á! Khi nào tôi
nhìn thấy gương mặt vợ của Ananta, tôi sẽ có cảm giác như sồng trên thiên đàng ở
hạ giới!” Đó là lời của mẹ tôi thốt ra để bày tỏ lòng mong ước điển hình của
người Ấn Độ, là được bảo đảm sự nối tiếp giòng dõi của gia đình.
Khi Ananta thành hôn, tôi mới lên bảy tuổi. Mẹ tôi lúc ấy ở Calcutta lo chuẩn bị
mọi việc để cử hành hôn lễ. Chỉ còn có cha tôi và tôi ở nhà tại Bareilly, trên
miền Bắc Ấn, cha tôi vừa đổi đến đây sau ba năm làm việc tại Lahore.
Tôi đã từng dự các cuộc hôn lễ rực rỡ tưng bừng của hai chị tôi là Roma và Uma.
Đối với Ananta là anh cả trong gia đình, thì những nghi lễ cưới hỏi lại càng đặc
biệt và long trọng hơn nữa.
Tại Calcutta, mẹ tôi tiếp đón nhiều quan khách đến từ các vùng xa và để họ tá
túc ở một ngôi nhà rộng rãi, đầy đủ tiện nghi vừa mua được ở số 50 đường
Amherst. Mọi việc đều đã chuẩn bị sẵn sàng: những món ăn cao lương mỹ vị, chiếc
kiệu lót lụa thêu thên đó Ananta sẽ được đặt ngồi lên và khiêng đi một cách long
trọng đến nhà tân giai nhân, những đèn lồng màu mè sặc sỡ, những con lạc đà và
voi bằng giấy nhồi cứng, những dàn nhạc Ấn Độ và Tây Phương, những kẻ làm trò hề
chuyên nghiệp, những tăng lữ hành lễ tôn giáo theo nghi lễ cổ truyền.
Cha tôi và tôi cũng sắp sửa chọn ngày lên đường đẻ dự lễ cưới cùng với gia đình.
Nhưng một đêm nọ tôi thấy một linh ảnh báo trước việc chẳng lành.
Đêm đó vào lúc nửa đêm ở tại Bareilly. Tôi đang ngủ bên cạnh cha tôi trên giường
thì thình lình tôi giật mình thức dậy vì một tiếng động khác thường làm rung
rinh chiếc mùng. Cái mùng vén lên và tôi nhìn thấy mẹ tôi.
- Đánh thức cha con dậy!
Tiếng nói của mẹ tôi lúc ấy chỉ còn là một giọng nói nhỏ thì thầm.
- Hai cha con hãy đáp chuyến xe lửa đầu tiên lúc bốn giờ sáng để đi Calcutta
ngay lập tức nếu muốn còn nhìn thấy mẹ!
Nói đến đó, mẹ tôi ngất xỉu và biến mất!
- Cha ơi! Cha! Mẹ đang hấp hối!
Giọng nói sợ hãi của tôi làm cha tôi thức giấc. Tôi càng khóc lớn hơn. Cha tôi
dỗ dành:
- Đó chỉ là một cơn ảo ảnh chứ không có gì lạ. Mẹ con đang mạnh khỏe không đau
ốm chi. Nếu hôm nay có tin gì, chúng ta sẽ đi ngay vào ngày mai.
- Cha sẽ hối hận suốt đời nếu cha không chịu đi ngay cho kịp ngày. Con cũng vậy,
con cũng sẽ oán trách cha suốt đời nếu cha không đi cho con kịp nhìn thấy mẹ!
Tôi nói lớn trong cơn thất vọng. Sáng hôm sau, tôi nhận được bức điện tín: “Mẹ
đau nặng. Hôn lễ đình lại sau. Hãy đến ngay.”
Chúng tôi hối hả lên đường. Một người cậu gặp chúng tôi, lúc xe lửa ngừng tại
một nhà ga lớn ở dọc đường. Một chuyến xe lửa ở đầu kia đi lại ầm ầm như cơn
giông, tiếng động mỗi lúc càng lớn khi chuyến xe đến càng gần. Trong cơn đau
khổ, tôi cảm thấy muốn nhào xuống đường rầy. Tôi đã không con mẹ, như linh tính
tôi đã báo trước, cuộc đời từ nay đối với tôi thật vô vị và không thể chịu nổi.
Mẹ tôi là một người tri kỷ lớn nhất mà tôi có trên đời, đôi mắt đen của mẹ tôi
là một nguồn an ủi duy nhất, tình thương của mẹ tôi là nơi trú ẩn chắc chắn nhất
trong thời thơ ấu của tôi.
- Chị còn sống chăng? Cậu tôi hỏi.
- Tự nhiên là còn! Cha tôi đáp.
Tuy nhiên, tôi không tin tưởng ở lời quả quyết này, và cậu tôi đã khám phá ra
nét thất vọng hiện trên gương mặt của tôi.
Chúng tôi đến Calcutta chỉ vừa kịp để chứng kiến cái chết của mẹ tôi. Tôi rơi
vào một trạng thái buồn thảm và sự sống đối với tôi không còn ý nghĩa gì. Nhiều
năm trôi qua trước khi tôi có thể hòa mình với sự thật đã rồi và không thể tránh
khỏi. Những tiếng khóc than của tôi vang dội đến tận mây xanh, sau cùng đã động
lòng đức Phật Mẫu thiêng liêng nên ngài đã xoa dịu vết thương lòng của tôi bằng
những lời này:
- Chính Ta đã săn sóc đến con, từ kiếp này sang kiếp khác, suyên qua tình thương
của vô số những người mẹ đã sinh ra con ở thế gian! Con hãy thấy trong cái nhìn
của Ta những tia sáng dịu hiền của những cặp mắt đẹp long lanh và đen huyền mà
con đã mất!
Cha tôi và tôi trở về Bareilly, sau khi lễ hỏa táng mẹ tôi đã hoàn tất. Mỗi buổi
sớm mai, tôi thức sớm và đén chiêm ngưỡng dưới gốc cây sheoli che bóng mát xuống
bãi cỏ xnah trước nhà. Những cánh hoa trắng tinh của chây sheoli tô điểm cho
cảnh vật càng thêm xinh tươi. Đôi mắt đẫm lệ và sương, tôi thường nhìn thấy một
ánh sáng lạ lùng huyền diệu đến với lúc bình minh. Một cơn khác vọng tìm chân lý
xâm chiếm lấy tôi. Tôi cảm thấy một sức lôi cuốn mãnh liệt thúc đẩy tôi đến dãy
Hy Mã Lạp Sơn.
Một người anh họ của tôi vừa đi chơi trên dãy Hy Mã Lạp Sơn trở về có đén thăm
chúng tôi tại Bareilly. Tôi chăm chú nghe một cách say sưa những chuyện của y
tường thuật về những non cao động cả là nơi trú ẩn của các nhà đạo sĩ Yogi.
- Chúng ta hãy đi lên núi Hy Mã Lạp Sơn.
Tôi đề nghị với Dưarka Prasad, lúc ấy đang ở trọ nhà chúng tôi tại Bareilly. Y
bèn tiết lộ điều đó cho anh cả tôi là Ananta đang đến thăm cha tôi lúc ấy.
Ananta không những mỉm cười về chương trình táo bạo của một đứa em nhỏ mà còn
diễu cợt tôi:
- Cái áo cà sa vàng của em đâu? Cái đó mới là áo của tu sĩ!
Những lời này gây cho tôi một ảnh hưởng bất ngờ. Trong tâm hồn tôi luôn lởn vỏn
những linh ảnh trong đó tôi thấy tôi mặc áo cà sa vàng của nhà tu sĩ và đi hành
hương ta bà khắp xứ Ấn Độ. Phải chăng câu nói đó đã làm thức động những ký ức về
những tiền kiếp của tôi khi xưa? Dầu sao, tôi sẵn sàng khoát lấy một cách thoải
mái và dễ dàng bộ áo vàng của người tu sĩ.
Một buổi sáng nọ, trong khi tôi đang nói chuyện với Dwarka, lòng sùng kính
Thiêng Liêng tự nhiên xâm chiếm hồn tôi một cách đột ngột. Bạn tôi nghe những
lời thuyết pháp hùng hồn của tôi một cách uể oải trong khi tôi lấy làm sung
sướng mà nghe giọng nói của chính mình!
Trưa hôm ấy, tôi lén trốn đi Naini Tal, dưới chân núi Hi Mã Lạp Sơn. Ananta liền
cương quyết đuổi theo bắt tôi trở lại, và tôi lấy làm buồn mà phải quay trở về
Bareilly. Từ nay, cuộc hành hương duy nhất mà tôi được phép thực hiện là đi đến
gốc sheoli mỗi buổi sớm mai. Tôi càng khóc thầm vì đã mất đi một người mẹ nhân
từ và thánh thiện.
Cái chết của mẹ tôi là một sự thiệt thòi lớn cho gia đình. Cha tôi không chịu
tái giá, và sống góa vợ như thế trong gần bốn mươi năm. Sống cảnh gà trống nuôi
con, cha tôi trở nên dịu dàng và mềm mỏng hơn và dễ thông cảm hơn. Bình tĩnh và
lo xa người giải quyết êm thắm tất cả mọi vấn đề trong nội bộ gia đình. Sau giờ
làm việc người sống cô độc như một ẩn sĩ trong phòng riêng, và thực hành pháp
môn thiền định. Về sau, tôi có ý định thuê một cô người Anh coi sóc việc nhà và
đem lại ít nhiều tiện nghi cho gia đình, thì cha tôi lắc đầu từ chối:
- Đối với cha, con thấy không, đã dứt mọi sự săn sóc từ ngày mẹ con khuất núi.
Cha sẽ không bao giờ chịu nhận sự săn sóc của một người đàn bà nào khác.
Mười bốn tháng sau khi mẹ tôi mất, tôi mới biết rằng mẹ tôi có để lại cho tôi
một thông điệp tối quan trọng. Ananta có mặt bên giường bệnh khi mẹ tôi hấp hối,
đã nghe những lời trăn trối của mẹ tôi. Tuy mẹ tôi có dặn rằng phải cho tôi biết
trong một năm sau, nhưng anh tôi đã đình hoãn lại ngày đó. Anh tôi sẽ rời khỏi
Bareilly trong ngày gần đây để cưới người con gái mà mẹ tôi đã chọn lựa. Vì thế,
một buổi chiều, anh tôi đến tìm tôi và nói:
- Mukunda, từ lâu, anh đã do dự không muốn cho em biết một tin nó sẽ làm em ngạc
nhiên.
Ananta nói với một giọng an phận:
- Anh sợ rằng nếu cho em biết sớm hơn, việc này càng làm cho em muốn bỏ gia đình
để xuất gia. Tuy nhiên, em đã có nguồn cả hứng thiêng liêng; cho nên lúc rượt
bắt em trở lại gia đình sau khi em muốn lên núi Hy Mã Lạp Sơn, anh đã quyết định
cho em biết ngay lời trăn trối của mẹ.
Anh tôi bèn đưa cho tôi một cái hộp nhỏ đụng bức thông điệp của mẹ tôi. Trong đó
mẹ tôi viết như sau:
Mukunda con hỡi! Những lời này là lời chúc lành cuối cùng của mẹ gửi đến con.
Giờ phút này là lúc mà mẹ phải tiết lộ cho con biết vài sự lạ thường xảy ra sau
khi con vừa mở mắt chào đời. Con chỉ là một hài nhi khi mà định mệnh của con
được tiết lộ cho mẹ biết, lần đầu tiên vị tôn sư của mẹ ở Banaras. Hôm ấy, tôn
sư đang tọa thiền và xuất thần nhập định, vác vị đệ tử lúc ấy đang ngồi tề tựu
rất đông chung quanh Ngài đến nỗi mẹ ngồi ẩn khuất ở tận phía sau và không nhìn
thấy mặt tôn sư.
Mẹ bồng con trên tay và cầu nguyện cho tôn sư biết có mẹ con ta trong đám đông
để ngài ban ân huệ cho chúng ta. Trong khi mẹ đang âm thầm cầu nguyện ráo riết
thì tôn sư mở mắt ra và gọi mẹ lại gần. Đám đông để cho mẹ đi qua và mẹ quì
xuống một bên ngài. Tôn sư mới bồng con đặt lên đầu gối ngài và đặt bàn tay tên
trán con trong một cử chỉ ban ân huệ tâm linh. Ngài nói: “Này hiền mẫu, con của
người sẽ trơ nên một tu sĩ xuất gia. Y sẽ đưa nhiều linh hồn đến cõi Phật.”
Lòng mẹ tràn ngập niềm vui sướng vì tôn sư toàn thông đã nghe được lời cầu
nguyện thầm kín của mẹ. Trước khi con lọt lòng mẹ thì tôn sư đã tiên đoán được
rằng ngày sau con sẽ noi theo con đường của Ngài.
Về sau, con hỡi, mẹ đã có dịp tin tưởng một cách chắc chắn rằng con đường của
con sẽ đưa con đi xa khỏi cuộc đời thế tục. Một sự kiện độc đáo đã xác nhận sự
tin tưởng đó và ngày nay mẹ để lại cho con lời di chúc tối hậu này, trên giường
bệnh hấp hối của mẹ.
Đó là về sự gặp gỡ một nhà hiền giả xứ Punjab. Trong khi gia đình ta đang cư ngụ
tại Lahore. Một buổi sớm mai, người gia bộc chạy vào phòng mẹ và nói: “Thưa bà,
một người tu sĩ dị kỳ vừa đến đây. Ông ta đòi yết kiến mẹ của Mukunda.”
Những lời nói đó làm cho mẹ sửng sốt. Mẹ liền bước ra vái chào người khách lạ.
Khi mẹ nghiêng mình kính cẩn chào người, thì mẹ cảm thấy vầng mẹ đang đứng trước
một vị sứ giả của Thiêng Liêng. Người ấy nói: “Này hiền mẫu, tôn sư muốn cho bà
biết rằng kiếp sống hiện tại bà ở thế gian này đã chấm dứt. Cơn bệnh sắp tới của
bà cũng sẽ là cơn bệnh cuối cùng.”
Nói xong, người im lặng trong một lúc, trong khi mẹ không hề cảm thấy sợ sệt mà
tâm hồn mẹ tràn đầy một niềm an tịnh vô biên. Sau cùng người lại nói: “Bà sẽ gửi
một món bảo vật hộ phù bằng bạc. Tôi sẽ không đưa cho bà ngày hôm nay, nhưng để
chứng thực lời nói của tôi, vật ấy sẽ hiện ra ngày mai khi bà ngồi thiền. Đến
giờ hấp hối, bà sẽ yêu cầu người con cả là Ananata hãy giữ lấy vật ấy trong một
năm và sau đó hãy chuyển giao cho người con thứ. Người này sẽ nhận lấy vật ấy
vào lúc mà y cảm thấy sẵn sàng từ bỏ thế gian để xuất gia tầm Đạo. Khi người này
đã giữ món hộ phù ấy trong nhiều năm và vật ấy đã làm tròn sứ mệnh của nó, nó sẽ
tự nhiên biến mất. Y không cần phải dấu nó ở một nơi kín đáo, vì nó sẽ trở về
chỗ cũ!”
Mẹ bèn cúng dường cho vị tu sĩ một món tiền đi đường nhưng vị ấy từ chối và rút
lui sau khi đã ban ân huệ cho mẹ. Chiều hôm sau, khi mẹ ngồi thiền, một vật hộ
phù bằng bạc tự nhiên xuất hiện trong hai bàn tay của mẹ, đúng như lời vị tu sĩ
đã nói trước. Vật ấy trước hết hiện ra làm cho mẹ có một cảm giác lành lạnh và
trơn trơn trong bàn tay. Mẹ đã giữ gìn cẩn thận vật ấy trong hai năm và đã giao
cho Ananta.
Mukunda con hỡi, con đừng khóc mẹ nữa, vị tôn sư thiêng liêng sẽ hộ trì cho mẹ
trong cõi Vô Cùng. Thôi, mẹ từ giã con, và cầu chúc đức Phật Mẫu che chở cho
con.
(Mẹ tôi đã biết trước một cách bí mật rằng bà sẽ không còn sống bao lâu nữa, do
đó tôi mới biết vì sao mẹ tôi quyết định cưới vợ gấp cho anh tôi.)
Một ánh sáng thần diệu xâm chiếm lấy tôi khi tôi sở hữu món bảo vật ấy; nhiều kỷ
niệm đã lãng quên từ đâu nay đã thức động trở lại. Món bảo vật, hình tròn, có
một dĩ vãng cổ xưa không biết từ đời nào, có khắc chữ cổ Phạn. Tôi đoán rằng đó
là món quà tặng của những vị Minh Sư mà tôi đã biết trong những kiếp quá khứ,
ngày nay đã đặt tôi dưới sự bảo vệ vô hình và bí ẩn của ngài. Nó còn có một ý
nghĩa huyền diệu khác nữa mà tôi không được phép tiết lộ.
Còn món bảo vật đã biến mất như thế nào vào những giờ phút đau khổ nhất của đời
tôi, và sự biến mất ấy mở màng cho việc gặp gỡ với tôn sư tôi như thế nào, thì
điều đó tôi không thể tường thuật lại trong chương này.
Nhưng người thanh niên bị thất vọng trong chuyến du hành lên dãy Hy Mã Lạp Sơn,
đã đi xa, dưới ảnh hưởng phò trợ vô hình của món bảo vật hộ phù.